Tạp chí tiêu điểm

Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI

  1. 3 DAYS AGO

    Hoa Kỳ đối mặt với những thách thức mới của chương trình hạt nhân Bắc Triều Tiên

    Cho đến hiện tại Bình Nhưỡng vẫn tỏ ra kín tiếng trước nhiều lời mời từ tổng thống Mỹ Donald Trump gởi đến nhà lãnh đạo Kim Jong Un. Tuy nhiên, trong tháng 9/2025, Bắc Triều Tiên để ngỏ khả năng nối lại đàm phán với điều kiện Hoa Kỳ từ bỏ yêu cầu phá dỡ kho vũ khí hạt nhân của nước này. Theo giới quan sát, nguyên thủ Mỹ hiện đang đối mặt với một nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên ngày càng tự tin hơn, được tiếp thêm sức nhờ vào sự hậu thuẫn của Nga. Ngày 29/07/2025, Kim Yo Jong, em gái lãnh đạo Bắc Triều Tiên tuyên bố rằng sức mạnh hạt nhân của của CHDCND Triều Tiên là « không thể đảo ngược », vị thế quốc gia có trang bị vũ khí hạt nhân là « vĩnh viễn », và bất kỳ cuộc đối thoại nào trong tương lai sẽ phải bắt đầu bằng sự thừa nhận vị thế đó . Bà Kim Yo Jong còn nói thêm « năm 2025 không phải là năm 2018, cũng không phải 2019 », hàm ý nhắc đến các thượng đỉnh trước đây giữa Bắc Triều Tiên và Mỹ trong nhiệm kỳ đầu tiên của Donald Trump. Trong một lần xuất hiện hiếm hoi tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ngày 29/09/2025, thứ trưởng Ngoại Giao Bắc Triều Tiên Kim Son Gyong đã tái khẳng định rằng nước ông sẽ không từ bỏ vũ khí hạt nhân bất chấp yêu cầu của quốc tế, xem đây là những yếu tố then chốt để duy trì « cân bằng thế mạnh » với Hàn Quốc. Theo nhiều nhà quan sát, những tuyên bố trên của Bắc Triều Tiên phản ảnh một bước tiến đáng kể trong lập trường ngoại giao của chế độ Kim Jong Un. Hơn năm năm sau thất bại thượng đỉnh Hà Nội 2019, Bình Nhưỡng đang đưa ra một tầm nhìn hoàn toàn khác cho tương lai. Để hiểu rõ hơn những thách thức mới của chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên đối với an ninh bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á cũng như là đối với thế răn đe của Hoa Kỳ trong khu vực, RFI Tiếng Việt có cuộc trao đổi với nhà nghiên cứu về Đông Bắc Á, Đông Nam Á Laurent Gédéon, Đại học Sư phạm Lyon.  ---------- ***** ---------- RFI Tiếng Việt : Trước hết, ông giải thích như thế nào về những tuyên bố gần đây của Bình Nhưỡng ? Laurent Gédéon : Theo tôi, có ba điểm chính có thể phân tích từ những tuyên bố trên của Kim Yo Jong : Thứ nhất, vũ khí hạt nhân, với tư cách là một yếu tố răn đe, hiện đã được đưa vào Hiến pháp của CHDCND Triều Tiên và không còn chỉ là đòn bẩy hay một biến số điều chỉnh trong các cuộc đàm phán tương lai. Thứ hai, việc nối lại đàm phán chắc chắn sẽ thất bại nếu Hoa Kỳ vẫn kiên trì yêu cầu phi hạt nhân hóa như là một điều kiện tiên quyết. Điểm thứ ba, đối thoại vẫn có thể thực hiện được, nhưng trên cơ sở thừa nhận « sự đã rồi » được thể hiện qua tình trạng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Liệu ta có thể nói rằng với lời khẳng định trên, Bắc Triều Tiên đang vạch ra một đường lối đối ngoại mới với Hoa Kỳ ? Laurent Gédéon : Tuyên bố này của Bình Nhưỡng thực sự cho thấy rõ ba trục, có thể hiểu như là đường lối mới trong chính sách đối ngoại, nhất là với Hoa Kỳ. Trục thứ nhất là nhằm củng cố tính chính đáng trong nội bộ, cũng như với bên ngoài về chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Bằng cách khẳng định quy chế hạt nhân là « không thể đảo ngược » và « vĩnh viễn », CHDCND Triều Tiên tìm cách hợp pháp hóa việc sở hữu vũ khí nguyên tử, không còn là một con bài mặc cả tạm thời, mà là một thành phần lâu dài trong lập trường chiến lược của đất nước.     Điều này giúp Bình Nhưỡng khẳng định trong đối nội rằng răn đe hạt nhân là một trụ cột không thể thay đổi của chủ quyền quốc gia, và trong đối ngoại – không chỉ đối với Mỹ và các đồng minh của Mỹ, mà cả với Trung Quốc và Nga – rằng kể từ giờ phải tính đến thực tế địa chiến lược này. Trục thứ hai, theo tôi, liên quan đến việc có một sự thay đổi cơ bản trong khuôn khổ đàm phán với Mỹ. Trong quá khứ, các cuộc đàm phán giữa Washington và Bình Nhưỡng được thực hiện trên cơ sở Mỹ muốn hạn chế và sau đó là chấm dứt chương trình vũ khí hạt nhân Bắc Triều Tiên. Khi đòi được công nhận vị thế hạt nhân trước, lập trường mới của Bình Nhưỡng rõ ràng đang làm thay đổi khuôn khổ đàm phán trước đây. Cuối cùng, khi nói rõ là « 2025 không phải là năm 2018 hay 2019 », CHDCND Triều Tiên bác bỏ ý tưởng trở lại với sự năng động của những  thượng đỉnh trước đây giữa Donald Trump và Kim Jong Un tại Singapore và Hà Nội. Theo Bình Nhưỡng, bối cảnh chiến lược và ngoại giao mới đòi hỏi phải « xuất phát lại từ đầu » với những luật chơi mới. Tuy nhiên, vài ngày sau khi nhậm chức vào tháng 01/ 2025, tổng thống Mỹ Donald Trump, trước giới báo chí, đã có vài bình luận ngắn gọn, ngầm thừa nhận Bắc Triều Tiên là một cường quốc hạt nhân. Vậy Bình Nhưỡng còn trông đợi điều gì từ Washington khi đòi được công nhận là một cường quốc hạt nhân « vĩnh viễn » ? Laurent Gédéon : Theo tôi, Bắc Triều Tiên có thể kỳ vọng các tiến triển trong một số lĩnh vực. Trước hết, một sự công nhận ngầm về vị thế hạt nhân của Bắc Triều Tiên ngụ ý chấm dứt câu chuyện « phi hạt nhân hóa toàn diện » và Washington chấp nhận vị thế của Bình Nhưỡng là một cường quốc hạt nhân hợp pháp. Bắc Triều Tiên không còn muốn bị đối xử như là một kẻ bị ruồng bỏ cần phải giải trừ vũ khí, mà là một cường quốc hạt nhân có chủ quyền được công nhận, một bên đối thoại chiến lược hợp pháp, tương tự như Ấn Độ, Pakistan hay Israel. Cả ba quốc gia hạt nhân này đều không ký kết TNP (Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân), nhưng trên thực tế được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hệ quả của sự công nhận này đối với Bình Nhưỡng có lẽ sẽ là khép lại vấn đề giải giới, nâng Bắc Triều Tiên lên hàng cường quốc không thể phủ nhận trong các cuộc đàm phán về an ninh khu vực và buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận một mối quan hệ bình đẳng theo kiểu « cường quốc với cường quốc ». Bước tiến thứ hai đối với Bắc Triều Tiên, theo tôi, liên quan đến việc nước này muốn một cuộc đàm phán vô điều kiện tiên quyết với Hoa Kỳ, có thể đi vào đàm phán song phương trực tiếp và bình đẳng chiến lược với Washington. Trên thực tế, Bình Nhưỡng muốn có một tiến triển tương tự như Ấn Độ, quốc gia mà Hoa Kỳ đã dần chấp nhận vị thế hạt nhân và cuối cùng đã ký kết một thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự năm 2008 mà vẫn không chính thức thừa nhận Ấn Độ là một cường quốc hạt nhân. Yếu tố thứ ba có thể khiến Bình Nhưỡng quan tâm đến là việc nới lỏng cấm vận, giảm nhẹ áp lực kinh tế đang đè nặng lên Bắc Triều Tiên. Điều này rõ ràng sẽ có những hệ quả tích cực cả về mặt đối nội, xét về cấp độ uy tín bên ngoài của nước này, lẫn các mối quan hệ của Bình Nhưỡng với quốc tế. Một lý do khác mà Bình Nhưỡng có thể coi là điều tích cực, đó là việc cắt giảm các cuộc tập trận quân sự Mỹ - Hàn, nhất là việc đình chỉ các cuộc tập trận thường kỳ hàng năm, cũng như áp lực quân sự đối với Bình Nhưỡng. Điểm cuối cùng là quá trình bình thường hóa dần dần để từ đó có thể đi đến một thỏa thuận hòa bình cho phép chế độ Bắc Triều Tiên củng cố quyền lực trong nước và xác định vị thế tích cực trong cộng đồng quốc tế. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nước Mỹ của Donald Trump chấp nhận chính thức công nhận vị thế cường quốc hạt nhân như Bắc Triều Tiên đòi hỏi ? Laurent Gédéon : Hệ quả của việc Hoa Kỳ công nhận chính thức vị thế hạt nhân của Bắc Triều Tiên là đáng kể. Đều này sẽ có những tác động đến toàn khu vực, bởi vì làm như vậy sẽ phá vỡ nền tảng chính sách nhất quán của Washington từ nhiều thập niên qua, từ chối cho Bình Nhưỡng tiếp cận bất kỳ vũ khí hạt nhân nào. Điều chắc chắn là Hàn Quốc sẽ không ngồi yên và điều này sẽ khơi lại cuộc tranh luận nội bộ về việc Seoul phát triển vũ khí hạt nhân, và có nhiều khả năng mối quan hệ giữa Seoul và Washington sẽ bị thay đổi, do sự mất lòn

    18 min
  2. 23 OCT

    Xung đột Gaza: Liệu có thể buộc Hamas hạ vũ khí ?

    Kế hoạch hòa bình cho Gaza của tổng thống Mỹ Donald Trump được các bên xung đột chấp thuận và giai đoạn một đã nhanh chóng được triển khai vào giữa tháng 10/2025. Lần đầu từ kể khi xung đột bùng nổ cách nay hai năm, viễn cảnh hòa bình lâu dài cho Gaza hé mở. Giải giáp lực lượng quân sự của Hamas là đòi hỏi chủ yếu của Israel để tổ chức mà nhiều nước phương Tây coi là « khủng bố » này không còn là mối đe dọa với Nhà nước Do Thái. Tổ chức Hamas không tự nguyện buông súng và để ngỏ khả năng gắn liền vấn đề này với sự ra đời của một Nhà nước Palestine có chủ quyền. Theo giới quan sát, viễn cảnh giải giáp lực lượng Hamas, một nội dung chính trong kế hoạch hòa bình 20 điểm của tổng thống Mỹ, có khả năng thực thi được hay không là một vấn đề còn hoàn toàn để ngỏ. Hamas suy yếu, buộc phải chấp nhận thỏa thuận « hạ vũ khí » Sau khi kế hoạch 20 điểm của tổng thống Mỹ được công bố, chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer, Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point, một người thân cận với thủ tướng Israel Netanyahu, tỏ ra rất tin tưởng vào viễn cảnh thực thi việc tước vũ khí của Hamas: « Kế hoạch 20 điểm được thảo ra là một kế hoạch hòa bình toàn diện, hoàn toàn loại bỏ Hamas khỏi vai trò là một tác nhân. Nếu mọi điểm của kế hoạch đó được tuân thủ thì sẽ không còn Hamas nữa. Hamas sẽ không có vai trò gì trong các nỗ lực chính trị, thậm chí là trong các hoạt động xây dựng xã hội trong tương lai. Điều quan trọng nữa là các quốc gia với đa số là người Ả Rập và Hồi giáo đã ký kết vào kế hoạch này. Đây không phải là một thương vụ để đàm phán, mà là một kế hoạch 20 điểm để thực hiện… Dải Gaza sẽ được phi cực đoan hóa và phi quân sự hóa. Hamas sẽ phải từ bỏ tất cả vũ khí. Chắc chắn kế hoạch này là chiến thắng hoàn toàn của Israel, nhưng cũng phục vụ các lợi ích của người Palestine không thuộc Hamas. Người Palestine sẽ có một chính phủ mới. Sẽ có một chương trình giáo dục giải cực đoan, và thậm chí cả con đường hướng tới quyền tự quyết của người Palestine nói chung. Kế hoạch này mang lại nhiều tiềm năng nhất cho hòa bình, không chỉ cho Gaza mà còn cho người dân Palestine. » Đọc thêm : Israel và Hamas đạt thỏa thuận về giai đoạn đầu trong kế hoạch hòa bình của Trump cho Gaza Tuy nhiên, thách thức của việc thực thi mục tiêu giải giới lực lượng vũ trang Hamas nằm ngay trong các điều khoản của kế hoạch này. Theo nhà nghiên cứu David Rigoulet-Roze, Viện Phân tích Chiến lược Pháp (IFAS), chuyên gia về các cuộc xung đột ở Trung Đông, điều 13 của kế hoạch quy định việc « phi quân sự hóa » bao gồm phá hủy cơ sở hạ tầng quân sự (đường hầm, kho vũ khí và xưởng sản xuất vũ khí), nhưng hiện tại vẫn chưa có thỏa thuận cụ thể về việc giám sát quá trình này. Trong chuyến công du mới đây tại Israel, phó tổng thống Mỹ J.D Vance thừa nhận là không có thời hạn cụ thể cho việc giải giáp Hamas. Sau hai năm chiến tranh, Hamas vẫn là một thế lực Theo giới chuyên gia, hai năm sau khi xung đột bắt đầu, lực lượng Hamas vẫn bám trụ vững chắc ở dải Gaza, mặc dù suy yếu nhiều. Hiện chưa có số liệu thống kê chính xác về tổn thất của phong trào Hồi giáo này. Nhiều nguồn tin đưa ra con số từ 8.000 đến 12.000 chiến binh thiệt mạng trong hai năm chiến tranh, trên tổng số 25.000 đến 30.000 chiến binh Palestine trước vụ khủng bố ngày 07/10/2023.  Hamas có thể vẫn tiếp tục tuyển mộ thêm đến 15.000 chiến binh trong thời gian chiến tranh chống Israel, theo một số nguồn tin Mỹ, được trang mạng Bỉ RTL trích dẫn. Theo truyền thông Anh quốc, chỉ vài giờ sau khi lệnh ngừng bắn được thực thi, Hamas đã ngay lập tức triển khai đến 7.000 chiến binh trên những vùng đất mà Israel rút quân. Một số giới chức Hamas cho biết mục tiêu là để bảo đảm an ninh chống lại những kẻ trộm cướp và các băng đảng người Palestine được sự hậu thuẫn của quân đội Israel trước đây. Đọc thêm - Trung Đông : Phe Hamas từ chối cam kết giải giáp Hamas sở hữu một kho vũ khí đa dạng, bao gồm vũ khí hạng nhẹ, hỏa tiễn tự chế và drone thô sơ. Theo ghi nhận năm 2018 của Small Arms Survey, một chương trình nghiên cứu chuyên về vũ khí của Thụy Sĩ, Hamas từ lâu đã phát triển một ngành công nghiệp tại chỗ để sản xuất hỏa tiễn từ các vật liệu dân dụng. Dự trữ vũ khí của Hamas được đánh giá là phân tán, rất khó truy tìm. Sức mạnh Hamas (1) : Hệ thống đường hầm hàng trăm cây số Sức mạnh quân sự của Hamas một phần chủ yếu dựa vào các hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất dài hàng trăm cây số, và các đô thị ở dải Gaza được Hamas dày công xây dựng để biến thành các thành lũy khó chinh phục. Chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer nhận định hệ thống đường hầm quân sự nhưng gắn liền với các công trình dân sự, và hệ thống phòng thủ đô thị nói chung ở Gaza là độc nhất vô nhị : « Hamas cai quản dải Gaza từ năm 2005 đã chi hơn một tỷ đô la cho hệ thống đường hầm phức hợp ước tính dài hơn 350 dặm, dành cho mục đích quân sự, nằm bên dưới các khu vực đô thị của Gaza, bắt đầu từ ngay dưới các tòa nhà cho đến hơn độ sâu khoảng 60 mét dưới lòng đất. Không chỉ đường hầm, mà mọi khía cạnh của môi trường Gaza đã được Hamas chuẩn bị cho chiến tranh trong vòng 20 năm, kể từ khi họ nắm quyền vào năm 2007. Nhưng trước đó nữa, ngay cả trong giai đoạn Israel chiếm đóng dải Gaza (cho đến năm 2005), Hamas đã xây dựng nhiều đường hầm vì mục tiêu quân sự. Đó là một điều rất độc đáo và thực sự độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh đô thị. Trong lịch sử, hầu hết các trận chiến đô thị đều là nơi mà bên phòng thủ có rất ít thời gian chuẩn bị. Càng có nhiều thời gian chuẩn bị phòng thủ thì chiến tranh càng kéo dài và càng tàn khốc. Một số trận chiến lớn nhất trong lịch sử chiến tranh đô thị như Stalingrad về cơ bản là giao tranh giữa hai lực lượng quân đội trên địa hình đô thị. Trận chiến đô thị lớn nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến II, trước chiến tranh Ukraina, là trận Mosul, một trận chiến kéo dài chín tháng để giành lại thành phố từ tay tổ chức Nhà nước Hồi giáo. Phải huy động đến hơn 100.000 quân, lực lượng an ninh Irak mới giành lại được thành phố (có từ 3.000 đến 5.000 quân cố thủ), vì Daech đã có hai năm chuẩn bị phòng thủ. Trong khi tại thành phố lớn như Gaza, Hamas đã có 20 năm chuẩn bị. Bên dưới mỗi bước chân người đi đường đều có một đường hầm. Về cơ bản, mọi ngôi nhà đều đã được quân sự hóa, hầu hết đều có kho chứa bom, thiết bị nổ tự chế hoặc vị trí bắn tỉa. » Sau hai năm chiến tranh, với khoảng 80% khu vực Gaza bị phá hủy, và 90% vũ khí hạng nặng của Hamas bị tiêu hủy, theo quân đội Israel, Hamas không còn là mối đe dọa trực tiếp với Israel, nhưng 60% của hệ thống đường hầm 500, 600 km vẫn còn nguyên vẹn, theo số liệu của chính Israel. Sức mạnh của Hamas không chỉ ở hệ thống đường hầm quân sự độc nhất vô nhị này, mà một phần chủ yếu nằm ở việc tại dải Gaza, Hamas không có đối thủ cạnh tranh. Theo nhà nghiên cứu Hugh Lovatt, chuyên về Trung Đông và Bắc Phi tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu, Hamas không thể sụp đổ, do các nhóm đối địch « không có đủ sức mạnh quân sự để đạt được điều này » và « cũng không có được sự ủng hộ của người Palestine, nhất là khi họ bị mất uy tín do mối quan hệ với Israel ». Sức mạnh Hamas (2): Từ phong trào thuần túy tôn giáo đến bàn tay sắt tại Gaza Về nguồn gốc của tổ chức độc quyền thống trị dải Gaza từ năm 2006, nhà xã hội học chính trị Laetitia Bucaille, Viện INALCO và Trung tâm CESMA, tác giả cuốn « Gaza quel avenir ? » (Tương lai nào cho Gaza ?) vừa ra mắt, nhấn mạnh đến quan hệ với Huynh đệ Hồi giáo, một tổ chức tôn giáo với tham vọng chính trị mang tầm vóc khu vực (Radio France) : « Hamas là từ viết tắt tiếng Ả Rập của Phong trào Kháng chiến Hồi giáo, được thành lập vào cuối năm 1987, thời điểm bắt

    10 min
  3. 16 OCT

    Trung Á : Tầm ảnh hưởng của Nga bị xói mòn ?

    Từ ngày 08 đến 10/10/2025, tổng thống Vladimir Putin có chuyến thăm cấp nhà nước ba ngày tại Tajikistan vào thời điểm các nước Trung Á đang có những chuyển đổi địa chính trị trong khi Nga tìm cách duy trì ảnh hưởng đang dần suy yếu của mình do cuộc chiến xâm lược Ukraina. Về mặt chính thức, tổng thống Nga đến thủ đô Dushanbe để dự hai cuộc họp quan trọng : Thượng đỉnh Nga và năm nước Trung Á Kazakhstan, Kirghizistan, Ouzbekistan, Tajikistan, và Turkmenistan, và Thượng đỉnh Cộng đồng Các Quốc gia Độc lập (CIS) giữa Nga, năm nước Trung Á cùng với Belarus, Armenia và Azerbaijan. Trung Á : Sân sau chiến lược truyền thống của Nga Theo giới quan sát, những cuộc họp này còn là cách để ông Putin chứng tỏ Nga vẫn duy trì kiểm soát đối với « các nước láng giềng gần », những nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Matxcơva, đặc biệt là tại Trung Á, đang trở thành vùng tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và phương Tây. Nhìn từ góc độ lịch sử, Trung Á từ lâu được xem như là sân sau chiến lược của Nga. Và mỗi nước Cộng hòa có những nét đặc biệt và riêng biệt trong quỹ đạo thuộc địa Nga và Xô Viết cũng như là trong mối quan hệ của họ đối với Nga. Các mối liên hệ trong nhiều lĩnh vực kinh tế, thương mại, giáo dục và an ninh, quân sự cũng từ đó được siết chặt hơn. Nhà nghiên cứu về Trung Á đương đại, Isabelle Ohayon, trợ lý giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về thế giới Nga, Kavkaz và Trung Âu, trên đài phát thanh France Culture, ngày 08/04/2025, nhắc đến Kazakhstan như một ví dụ điển hình : « Kazakhstan có mối liên hệ rất chặt chẽ và lâu đời với Nga, bởi vì nước này là quốc gia đầu tiên, là không gian đầu tiên bị đế chế Nga đô hộ ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Đây cũng là đất nước, trước khi Liên Xô sụp đổ, có cộng đồng cư dân Nga và nói tiếng Nga đông nhất. Người Kazakhstan chỉ chiếm có 39% dân số vào năm 1991 so với tỷ lệ 70% hiện nay. Điều đó cho thấy là hiện tượng Nga hóa, sự hiện diện của Nga, cũng như sự gắn bó với nền văn hóa lớn của Nga theo nghĩa chung đã thâm nhập, thấm nhuần sâu sắc tại Kazakhstan hơn là các nước Cộng hòa khác. Nếu chỉ xét về việc sử dụng ngôn ngữ, tiếng Nga được dùng phổ biến, song ngữ phát triển khá mạnh mẽ ». Năm 1991, Liên Xô tan rã, nhưng các mối quan hệ đó vẫn tồn tại. Theo nữ tiến sĩ Laetitia Spetschinsky, chuyên ngành Quan hệ Quốc tế tại trường đại học Công giáo Louvain, Bỉ, trả lời phỏng vấn báo Bỉ L’Echo, « sự tan rã một đế chế không có nghĩa là toàn bộ cấu trúc được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử bị sụp đổ : Hệ thống liên thông đường sắt và các tiêu chuẩn công nghiệp vẫn được duy trì ». Về điểm này, nhà nhiếp ảnh người Ouzbekistan Timur Karpov, trong một chương trình trên đài truyền hình ARTE (19/11/2024), có cùng nhận định : « Nga luôn gây sức ép mạnh mẽ đối với Uzbekistan. Mối quan hệ giữa hai nước đã bắt đầu phát triển trong suốt thời kỳ Xô Viết. Vào thời điểm đó, toàn bộ giới lãnh đạo đất nước, bằng cách này hay cách khác, đều có liên hệ chặt chẽ với Nga. Hệ quả là việc nước tôi khó thể tách rời khỏi Nga cũng là lẽ tất nhiên ». Chiến tranh Ukraina : Bàn cờ Trung Á được xáo lại Nhưng việc Nga phát động chiến tranh xâm lược Ukraina đã làm thay đổi bàn cờ địa chính trị tại Trung Á. Những phát biểu của ông Putin sẵn sàng dùng vũ lực để chiếm lại những vùng lãnh thổ từng thuộc về đế chế Nga hay để bảo vệ kiều dân Nga ở hải ngoại càng làm gia tăng nỗi lo về an ninh tại các nước Trung Á. Điều này thôi thúc các nước trong khu vực cùng với một số nước vùng Kavkaz bắt đầu mở rộng các mối quan hệ với nhiều nước đối tác cũng như đối thủ của Nga, từ Trung Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, cho đến Thổ Nhĩ Kỳ hay các nước Vùng Vịnh, nhằm tìm cách bảo vệ trước nguy cơ một cuộc tấn công mới từ Nga. Đối với năm nước Trung Á, cuộc chiến Ukraina một thời cơ tốt để thiết lập các mối quan hệ mới với nhiều cường quốc khác. Vladislav Inozemstsev, cố vấn đặc biệt tại Viện Nghiên cứu về Truyền thông Trung Đông, trả lời hãng Bloomberg, lưu ý, « tầm ảnh hưởng của Putin đang suy yếu, nhưng sẽ không kéo dài bao lâu ». Trong số các nước tận dụng khoảng trống quyền lực do Nga để lại, Trung Quốc là bên hưởng lợi nhiều nhất. Phóng sự của ký giả Heike Smith, ban tiếng Pháp đài RFI, nêu trường hợp cửa khẩu Khorgos, nằm giữa Trung Quốc và Kazakhstan. Tại đây, các hoạt động vận chuyển hàng hóa từ Trung Quốc sang châu Âu tăng vọt ngoạn mục kể từ khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, theo như mô tả của Hicham Belmaachi, một doanh nhân người Maroc. « Từ khi xảy ra chiến tranh ở Ukraina, chúng tôi nhận thấy nhiều công ty quốc tế, đặc biệt là các hãng vận tải biển lớn nhất, đã rút khỏi Nga. Điều này đồng nghĩa với việc các hãng lớn vận tải đường biển quốc tế đã ngừng hoạt động tại Nga. Vì vậy, chúng tôi đã phải thiết kế lại hoàn toàn hệ thống kho bãi tại khu vực này. Cụ thể là Kazakhstan, Uzbekistan và Kyrgyzstan, thay vì nhập khẩu phần lớn sản phẩm từ Nga, nay đã chuyển hướng sang Trung Quốc ». Mối tương quan lực lượng cũng vì thế có thay đổi. Nga không còn thế ưu việt tại Trung Á như trước đây. Nếu như Matxcơva vẫn thống trị khu vực trong lĩnh vực an ninh, Nga lại bị Trung Quốc cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, công nghệ và thậm chí cả ngoại giao. Về điểm này, nhà chính trị học người Kazakhstan, Dossym Satpaiev, giám đốc trung tâm tư vấn Risks Assessment Group, trả lời RFI, nhận định cuộc chiến tại Ukraina đã mang đến một cơ hội tốt cho phép Kazakhstan giữ khoảng cách với Matxcơva. « Đúng là chúng tôi có đường biên giới rất dài với Nga. Khoảng 20% ​​dân số là người Nga. Dầu mỏ xuất khẩu của chúng tôi vẫn đi qua lãnh thổ Nga. Hơn nữa, một phần lãnh thổ Kazakhstan phụ thuộc vào nguồn cung cấp điện của Nga. Kazakhstan cũng nhận khí đốt từ Nga. Vì vậy, Nga vẫn có ảnh hưởng đối với Kazakhstan. Nhưng mặt khác, cuộc chiến ở Ukraina đã tạo cho Kazakhstan một cơ hội tốt để dần dần tách khỏi Matxcơva. Kazakhstan giờ đây phải tìm kiếm một đối trọng địa chính trị với Nga. » Trung Á : Thách thức mới cho Nga Không chỉ có Trung Quốc, nhiều cường quốc phương Tây cũng bắt đầu dòm ngó đến Trung Á, từ Liên Hiệp Châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, cho đến nước Mỹ của Donald Trump, thông qua các thỏa thuận về đầu tư khai thác khoáng sản, vận chuyển và năng lượng. Trên đài RFI, Michael Levystone, đồng sáng lập Đài Quan sát Tân Á – Âu, chuyên gia về Châu Âu và vùng Á-Âu tại INALCO, nhận xét tiếp : « Đây là khu vực có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, chẳng hạn như năng lượng mặt trời ở Uzbekistan, năng lượng gió trên bờ biển Caspi của Kazakhstan và Turkmenistan, và thủy điện, vốn đã rất phát triển ở Kyrgyzstan và Tajikistan. Một khu vực nằm ở ngã tư của các cường quốc : Nga, Trung Quốc, Iran, và cũng không xa Thổ Nhĩ Kỳ. Trong bối cảnh các lệnh trừng phạt rất khắc nghiệt đối với nền kinh tế Nga nhằm trả đũa cho cuộc xâm lược Ukraina ngày 24 tháng 2 năm 2022, khu vực này một lần nữa thực sự trở thành trung tâm thương mại xuyên khu vực giữa Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu theo hướng Đông-Tây, và giữa Nga và Nam Á theo hướng Bắc-Nam. Đây là những quốc gia, các nước Cộng hòa Trung Á, đang nỗ lực tối đa hóa tiềm năng địa kinh tế mới này, gắn liền với việc điều chỉnh quy mô các hành lang giao thông đi qua khu vực này để kết nối các cường quốc kinh tế với nhau. » Dù vậy, giới chuyên gia đều nhận định, bất chấp cuộc chiến tại Ukraina, tầm ảnh hưởng của Nga tuy suy giảm, nhưng Matxcơva vẫn còn hiện diện đáng kể về mặt chính trị, kinh tế và quân sự trong vùng. Trang Bloomberg lưu ý, hàng triệu di dân Trung Á đang sinh sống và làm việc tại Nga gởi tiền, góp phần nuôi sống nền kinh tế trong nước. Kazakhstan, Kirghizistan và Armenia là thành viên của khu vực thuế quan chung do Nga điều hành. Còn Tajikistan tham gia vào khối liên minh phòng thủ với Matxcơva, trong khi Kazakhstan là quốc gia duy nhất trong vùng kh

    10 min
  4. 9 OCT

    Chống Nga can thiệp bầu cử: Vì sao Moldova thành điểm quyết đấu giữa EU và Matxcơva?

    Moldova, quốc gia nhỏ bé với hơn 2 triệu dân, thành viên Liên Xô cũ, vốn rất ít được chú ý, đột ngột trở thành tâm điểm thời sự châu Âu cuối tháng 9/2025. Bầu cử Quốc Hội Moldova không chỉ là cuộc đấu giữa đảng PAS cầm quyền của tổng thống Maia Sandu, chủ trương nhanh chóng gia nhập Liên Âu và khối đảng phái yêu nước thân Nga (BECS), mà còn là một thử thách lớn với Liên Âu, coi việc mở rộng khối là con đường giúp củng cố hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Cuộc bầu cử Modlova là trận quyết đấu mới giữa Liên Âu với Nga trong « cuộc chiến hỗn hợp », khi chiến tranh tâm lý, chiến tranh trên mạng đi kèm với những can thiệp hoặc đe dọa can thiệp bằng vũ lực. Báo chí châu Âu nói đến một « trắc nghiệm lớn đầu tiên » trong cuộc đọ sức giữa Liên Âu và Nga » (RTBF). « Một phần tương lai của Liên Âu và chính sách mở rộng của khối sẽ được quyết định tại đây », theo nhà chính trị học Florent Parmentier, chuyên về khu vực đông Âu hậu Liên Xô. Nhìn từ Ukraina, đang trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nga, đây là một trắc nghiệm « với Ukraina và toàn châu Âu ». Tổng thống Volodymyr Zelensky khẳng định : « Châu Âu không thể cho phép mất Moldavia, như đã mất Belarus và Gruzia ». Tình thế đầy bất trắc trước bầu cử Ngày 28/09/2025 vừa qua, cử tri Moldova đã dành đa số quá bán tại Quốc Hội mới cho đảng của nữ tổng thống Maia Sandu, người đã đặt cử tri trước lựa chọn « địa-chính trị » rõ ràng: Bầu cho PAS là hội nhập hoàn toàn với gia đình Liên Âu. Và ngược lại, nếu đảng PAS mất đa số,  Moldavia sẽ rơi trở lại quỹ đạo của điện Kremlin, đất nước « sẽ mất tất cả ». Xét theo sự ủng hộ trước đó của cử tri, tình thế Moldova trước bầu cử là đầy bất trắc, dù mục tiêu gia nhập Liên Âu được ghi vào Hiến pháp, sau cuộc trưng cầu dân ý cuối năm ngoái 2024. Phe ủng hộ gia nhập Liên Âu chỉ giành chiến thắng trong gang tấc (50,35%). Số người ủng hộ tổng thống Maia Sandu cũng sụt giảm nhiều trong cuộc bầu cử tổng thống năm ngoái. Chiến tranh Ukraina khiến kinh tế Moldova suy trầm, lạm phát tăng vọt. Moldova có lúc phải tiếp nhận đến 1,5 triệu người tị nạn Ukraina. Điện Kremlin cắt khí đốt với Moldova từ đầu năm nay. Chưa kể đến sự tồn tại của vùng ly khai thân Nga Transnistria, nơi có cả nghìn quân Nga trú đóng, và nhiều khu vực, nơi có đến hơn 90% cư dân chống gia nhập Liên Âu. Theo một số ước tính, trước thềm bầu cử, có đến 30% cử tri do dự. Tung tin giả, mua phiếu bầu, gây rối: « Lòng tin vào Liên Âu », mục tiêu triệt hạ chính Nga và các thế lực thân điện Kremlin bị cáo buộc chi hàng trăm triệu euro để can thiệp vào cuộc bầu cử, tương đương với nhiều phần trăm tổng sản phẩm quốc nội của Moldova, một quốc gia thường được xếp vào nhóm nghèo nhất châu Âu. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn Viện Pháp về Quan hệ Quốc tế (IFRI), ngay sau cuộc bầu cử Quốc Hội Moldova, nhà nghiên cứu Florent Parmentier, ghi nhận ba yếu tố « can thiệp bầu cử » chính: « Thứ nhất là thông tin bịa đặt, và việc thiết lập một hệ thống tuyên truyền với mục tiêu cuối cùng là lên án Liên Âu,  lĩnh vực được triển khai hết công suất. Một ví dụ : trong chuyến thăm Chisinau của tổng thống Pháp, thủ tướng Đức và thủ tướng Ba Lan ngày 27/8/2025, có một tin giả được tung ra. Nếu tổng thống Maya Sandou chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp, rất có thể ngay lập tức sẽ có 700 binh sĩ Moldova được cử tham gia liên quân tình nguyện vì Ukraina do Pháp và Anh chủ trương. Loại tin giả này nhằm làm cho mọi người tin là tổng thống Maia Sandou sẽ kéo Moldova vào cuộc chiến tranh (chống Nga). Bên cạnh việc thường xuyên tung tin giả,  một nỗ lực gây bất ổn khác liên quan đến vấn đề mua phiếu bầu, điều vốn đã được bàn luận rộng rãi trong cuộc bầu cử tổng thống cuối năm ngoái. Ngày 20/10/2024, vòng bỏ phiếu đầu tiên, bà Maia Sandou tuyên bố : đã có đến 300.000 cử tri bị mua chuộc. Để đánh giá đúng tầm mức to lớn của con số này, cần liên hệ với tổng số dân Moldova 2,6 triệu người. Yếu tố thứ ba là trong trường hợp có sự chênh lệch sít sao về kết quả bầu cử, có thông tin về kế hoạch của Nga huấn luyện một số phần tử gây bạo loạn người Moldova cùng với người Serbia, tổ chức các cuộc biểu tình phản đối sau bầu cử, và có các hành động gieo rắc không khí lo sợ.  Như vậy, chúng ta thấy cái đích tấn công của Nga là lòng tin vào Liên Hiệp Châu Âu cũng như chính sách kết nạp thành viên mới của Liên Âu và những lợi ích mà Liên Âu có thể mang lại. Tiếp theo đó là làm xói mòn lòng tin vào các định chế nhà nước Moldova. »  ECFR : Gần như hóa giải được nạn mua phiếu trước bầu cử Để chống lại các can thiệp Nga, Liên Âu dồn lực cho Moldova. Tháng 9/2025, trước thềm cuộc bầu cử, Hội đồng Đối ngoại châu Âu (European Council on Foreign Relations - ECFR), viện tư vấn hàng đầu về các chính sách của châu Âu, tiến hành một khảo sát tại quốc gia này. Theo thẩm định của ECFR, với các hỗ trợ của các cơ quan của Liên Âu về điều tra tài chính và chia sẻ các thông tin khác, chính quyền Moldova về cơ bản đã hóa giải được các can thiệp của Nga trong lĩnh vực mua phiếu bầu, giảm mạnh so với kỳ bầu cử tổng thống năm ngoái. Tổng cộng 25.000 người đã bị phạt vì tội mua bán phiếu bầu trong thời gian tranh cử. Chính quyền Moldova kết hợp tấn công các mạng lưới mua bán phiếu bầu với việc tuyên truyền rộng rãi về « tính chất tội phạm » của hoạt động này, nâng cao nhận thức cộng đồng quy mô lớn, « bao gồm quảng cáo, truyền hình và mạng xã hội, đặc biệt tại các nhà thờ Chính thống giáo », khiến « hầu hết các mạng lưới mua bán phiếu bầu » được coi là « đã bị tê liệt » trước bầu cử. Việc nhà tài phiệt Vladimir Plahotniuc bị dẫn độ từ Hy Lạp về Moldova ngay trước thềm bầu cử được coi là một đòn nặng giáng vào các thế lực thao túng. Plahotniuc là cựu chủ tịch đảng Dân Chủ Moldova cánh tả, cựu phó chủ tịch Quốc Hội, được coi là người giàu nhất Moldova. Plahotniuc cùng Ilan Shor, nhà tài phiệt Moldova, cựu chủ tịch đảng Sor thân Nga cánh hữu, hiện đang lưu vong tại Matxcơva, bị cáo buộc lừa đảo 1 tỉ euro. Cả hai đều chạy ra nước ngoài năm 2019 vì sợ bị bắt. Ilan Shor hiện bị cáo buộc đứng sau các tài trợ cho hoạt động đưa tin giả, tin bóp méo trên các mạng Facebook, TikTok, Telegram… Chống tin giả: Lần đầu tiên EU triển khai « Đội Phản ứng Nhanh » Lần đầu tiên Liên Âu triển khai Đội Phản ứng Nhanh chống lại cuộc chiến Hỗn hợp (Hybrid Rapid Response Team) để hỗ trợ một quốc gia, là Moldova, chống lại can thiệp của nước ngoài, từ đầu năm nay, với thành phần gồm nhóm chuyên gia từ Bruxelles và từ nhiều quốc gia thành viên. Vào tháng 6, Liên Âu họp với đại diện các tập đoàn truyền thông kỹ thuật số Google, Meta và TikTok cùng các cơ quan chức năng Moldova và các nhóm thuộc xã hội dân sự nước này để phối hợp đối phó với các chiến dịch thông tin sai lệch. Kể từ tháng 7/2025, Ủy Ban Châu Âu lập FACT, một chi nhánh khu vực thuộc Đài quan sát Truyền thông Kỹ thuật số Châu Âu (EDMO), tập trung vào việc chống các chiến dịch thông tin sai lệch của Nga trong kỳ bầu cử vừa qua tại Moldova. Chủ thuyết của Liên Âu : Kết nạp thành viên mới giúp « bảo đảm an ninh »  Liên Hiệp Châu Âu hiện tại gồm 27 quốc gia thành viên. Tính từ Cộng đồng Kinh tế châu Âu, thành lập năm 1957, với 6 nước (Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg), được coi là tiền thân của Liên Âu, khối đã trải qua 7 đợt kết nạp. Việc mở rộng cho sự tham gia của các thành viên mới, về mặt nguyên tắc, được Liên Âu coi là điều giúp mang lại hòa bình và an ninh cho châu lục, thúc đẩy kinh tế, củng cố nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, nhân quyền. Moldova và Ukraina, cùng Gruzia là ba quốc gia chính thức đệ đơn gia nhập Liên Âu ngay sau khi Nga tấn công Ukraina đầu năm 2022. Trong bối cảnh này, Ủy Ban Châu Âu tiếp tục coi việc mở rộng khối như một chiến lược không những là hàng đầu, mà còn c

    9 min
  5. 2 OCT

    Taiwan Relations Act và những thách thức từ chính quyền Trump 2.0

    Vào lúc Trung Quốc tăng cường các hoạt động hăm dọa quân sự xung quanh đảo Đài Loan, tổng thống Mỹ Donald Trump kể từ ngày nhậm chức đã có những cử chỉ gây áp lực với chính quyền Đài Bắc từ quốc phòng, kinh tế cho đến công nghệ. Điều này làm dấy lên nghi vấn : Liệu các bảo đảm về an ninh trong khuôn khổ Taiwan Relations Act mà Hoa Kỳ cung cấp cho Đài Loan vẫn sẽ vững chắc ? Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2013, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có một mục tiêu : Thống nhất Trung Quốc bằng cách đặt Đài Loan dưới sự quản lý của Bắc Kinh, kể cả bằng vũ lực nếu cần thiết. Tuy nhiên, đảo Đài Loan, mà Trung Quốc coi như là một phần lãnh thổ, một tỉnh ly khai, từ năm 1979, được hưởng sự bảo vệ của Mỹ thông qua Taiwan Relations Act (Đạo luật Quan hệ Đài Loan). TRA : Hoàn cảnh ra đời Chính sách này của Mỹ đối với Đài Loan ra đời trong bối cảnh Washington công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có thủ đô là Bắc Kinh, như là nước Trung Quốc duy nhất, quốc gia mà Mỹ thiết lập quan hệ chính thức. Theo Camille Grand, nhà nghiên cứu tại Hội đồng Châu Âu về Quan hệ Quốc tế (ECFR), cựu trợ lý tổng thư ký NATO, trên làn sóng France Culture ngày 18/07/2025, việc Hoa Kỳ tìm cách xích lại gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông, ngoài mục tiêu chiến lược chống Liên Xô, còn thể hiện một cái nhìn thực tế chiến lược của Washington, « về một đất nước sắp có một tỷ dân so với một hòn đảo nhỏ dân tộc chủ nghĩa mà cơ may lấy lại quyền lực ở lục địa đã trở thành một điều khôi hài ». Tuy công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Washington vẫn muốn duy trì các mối quan hệ đồng minh tại vùng Thái Bình Dương, và do vậy Mỹ vẫn hiện diện tại Hàn Quốc, Nhật Bản, cũng như đúc kết một mối quan hệ với Đài Loan trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về an ninh, quốc phòng. Cũng trên làn sóng France Culture, chuyên gia về Trung Quốc, Alice Ekman, giám đốc nghiên cứu Viện Nghiên cứu An ninh Liên Hiệp Châu Âu, lưu ý TRA là một văn bản cho phép định hình hợp tác quốc phòng, nhưng không bảo đảm bất kỳ sự can thiệp quân sự nào của Mỹ nếu Đài Loan bị tấn công: «"Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Tây Thái Bình Dương", như cách gọi vào thời điểm đó. Sau đó, mục 2, đoạn 2, đề nghị cung cấp cho Đài Loan "vũ khí phòng thủ cần thiết để đảm bảo sự ổn định và an ninh này". Rồi ở mục 3, tôi sẽ không đi sâu vào thủ tục và chi tiết, nhưng điều quan trọng là văn bản này cũng chính thức hóa việc bán vũ khí cho Đài Loan: "Hoa Kỳ cam kết cung cấp cho Đài Loan các mặt hàng quốc phòng và dịch vụ quốc phòng với số lượng đủ để đảm bảo khả năng tự vệ của Đài Loan" ». Trump II và những thách thức cho TRA Trong nhiệm kỳ I, tổng thống Trump đã để lại ấn tượng mạnh mẽ và tích cực đối với Đài Loan. Chính sách thuế quan và các quyết định hạn chế chuyển giao công nghệ của ông đã giúp Đài Loan đạt được mục tiêu mà họ theo đuổi từ gần hai thập niên : Đa dạng hóa đầu tư Đài Loan và dịch chuyển sang các quốc gia khác trong khu vực, đồng thời khuyến khích đưa một số nhà xưởng về đảo. Trong lĩnh vực quốc phòng, chính quyền Trump I cũng có những cử chỉ tích cực với doanh số bán vũ khí cho Đài Bắc đã đạt mức 18 tỷ đô la, so với con số 14 tỷ thời chính quyền Obama. Cũng trong nhiệm kỳ I, ông Trump còn ký Taiwan Travel Act (Đạo luật Du lịch Đài Loan) năm 2018, chấm dứt một số hạn chế trao đổi chính thức kể từ khi quan hệ bang giao bị cắt đứt năm 1979. Nhưng từ khi bắt đầu nhiệm kỳ II, mọi sự thay đổi. Tổng thống Trump có những phát biểu gay gắt đối với Đài Bắc, cho rằng hòn đảo này đã đánh cắp công nghệ chip bán dẫn, rằng Đài Loan phải tăng chi quốc phòng, và phải trả « phí bảo vệ » tương tự như một loại phí « bảo hiểm an ninh ». Và gần đây nhất, theo như tiết lộ của tờ Washington Post, tổng thống Mỹ dường như đã từ chối phê duyệt gói viện trợ quân sự cho Đài Loan trị giá hơn 400 triệu đô la. Gói viện trợ này bao gồm các mặt hàng như đạn dược và drone. Nhà Trắng tuyên bố rằng quyết định này vẫn chưa hoàn tất. Ngoài ra, hồi tháng 7/2025, ông Trump còn ngăn cản tổng thống Đài Loan trên đường đến thăm các nước bạn bè Trung Mỹ quá cảnh vào Mỹ sau khi có những phản đối từ Trung Quốc, khiến ông phải hủy chuyến đi. Trước đó, một tháng, Washington hủy một cuộc họp dự kiến tại Mỹ với bộ trưởng Quốc Phòng Đài Loan. Tất cả những động thái « bất thường » này của Mỹ đã làm dấy lên nỗi lo lắng : Chính sách bảo vệ Đài Loan của Mỹ có được bảo đảm dưới thời chính quyền Trump 2.0 ? Liệu những cử chỉ này của ông Trump có làm suy yếu « TRA » mà Mỹ cung cấp cho Đài Bắc ?   Để trả lời những câu hỏi trên, nữ chuyên gia về Trung Quốc Alice Ekman, cho rằng nên xét đến vấn đề bán vũ khí. « TRA » là một văn bản chính thức hóa tính liên tục và nhu cầu cung cấp vũ khí cho Đài Loan. Câu hỏi đặt ra ở đây là bất chấp những áp lực từ Trung Quốc, tình hình bán vũ khí cho Đài Loan dưới thời Trump II ra sao ? « Vẫn còn quá sớm để biết được vì ông ấy chỉ mới bắt đầu nhiệm kỳ, nhưng người ta cũng đã bắt đầu có vài ước tính. Chính quyền Mỹ hy vọng sẽ đạt được thành tích như thời Trump I trên phương diện bán vũ khí. Nghĩa là, trong nhiệm kỳ I, họ đã phê duyệt các giao dịch bán vũ khí cho Đài Loan với tổng trị giá là 18 tỷ đô la và do vậy, họ hy vọng chí ít sẽ đạt được con số tương tự, thậm chí cao hơn. Để so sánh, dưới thời Biden, doanh số bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan đạt tổng cộng 8 tỷ đô la. Vì vậy, đây là điều thú vị nên xem xét đến, dù rằng người ta có ấn tượng là ông Trump chưa nói nhiều đến Đài Loan, thậm chí không hề nhắc đến hòn đảo này trong bài phát biểu nhậm chức ngày 20/01/2025. Nhưng điều tôi muốn nói là tôi không thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Hoa Kỳ sẽ thay đổi hướng đi liên quan đến Đài Loan kể từ đầu nhiệm kỳ của Trump. Điều tôi thấy, và tôi nghĩ nhiều nhà phân tích cũng thấy, là một cách tiếp cận mang tính giao dịch nhiều hơn, điều đó không có gì mới mẻ ». « TRA » : Đối tượng gây căng thẳng và áp lực Tuy nhiên, theo cách nhìn từ nhà nghiên cứu về an ninh Camille Grand, những phát biểu trên của tổng thống Trump còn là biểu hiện của những căng thẳng trong nội bộ chính trường Mỹ từ hai trường phái. Giữa một bên có sự đồng thuận lưỡng đảng xem cạnh tranh với Trung Quốc là một ưu tiên, trong đó Đài Loan là một trong những điểm nóng và do vậy, ủng hộ bảo đảm an ninh cho Đài Loan mạnh mẽ. « Và đây đặc biệt là quan điểm rất rõ ràng của Lầu Năm Góc, đề cập đến một phần lớn các công cụ quân sự của họ, vị thế của họ ở châu Á, trong trường hợp xảy ra khủng hoảng liên quan đến Đài Loan. Đây chính xác là những gì Bộ trưởng Quốc phòng Peter Hegseth đã phát biểu tại Singapore cách đây không lâu. Nhưng cũng có một xu hướng thứ hai trong phe Cộng hòa, nhìn chung theo chủ nghĩa biệt lập hơn, vì vậy họ rất thô bạo với châu Âu, với chủ trương "hãy tự lo liệu an ninh của mình", và cả trong bối cảnh châu Á, họ cũng nói với các đồng minh rằng, "nếu quý vị không tăng chi tiêu quốc phòng, nếu quý vị không tự lo cho an ninh của mình, chúng tôi sẽ xem xét những gì chúng tôi có thể sẽ làm". Và như vậy, với một thứ áp lực ngầm lên các đồng minh châu Á, dù là Nhật Bản, Hàn Quốc và nhất là Đài Loan hiện đang trên tuyến đầu do mối quan hệ an ninh kém vững chắc của họ, vì không có quân đội Mỹ thường trực, không có hiệp ước nào, như chúng tôi đã đề cập trước đó. » Ngoài ra, vì chỉ là một văn bản luật, không phải là một hiệp ước liên minh quân sự như ông Camille Grand đề cập ở trên, nên TRA luôn mang tính bất ổn và là đối tượng gây sức ép thường trực từ phía Đài Loan và Trung Quốc. Ông giải thích tiếp : « Một nhóm vận động hành lang của Đài Loan hoạt động rất mạnh mẽ - không phải theo nghĩa xấu - tại Washington, và nhóm này vẫn

    12 min
  6. 25 SEPT

    Mỹ tốc lực tái lập quan hệ với Belarus: Kịch bản hoàn toàn có lợi cho Putin?

    Quan hệ giữa Mỹ và Belarus, quốc gia thường được coi là hoàn toàn nằm trong quỹ đạo của điện Kremlin, có một số biến chuyển bất ngờ. Quan sát viên Mỹ được mời dự tập trận Zapad do Nga và Belarus chủ trì. Washington mở lại sứ quán tại Belarus. Trừng phạt với hãng hàng không quốc gia Belarus được dỡ bỏ sau khi Minsk thả hàng chục tù chính trị. Việc Mỹ và Belarus tốc lực bình thường hóa quan hệ có phải là một kịch bản nằm hoàn toàn trong lợi ích của chế độ Putin? Drone Nga xâm nhập lãnh thổ NATO, Mỹ được mời quan sát tập trận Zapad Ngay trước khi cuộc tập trận lớn Zapad 4 năm một lần, đêm 09/09/2025 khoảng 20 drone Nga xâm nhập lãnh thổ Ba Lan, quốc gia sườn đông của khối NATO. Đây là lần thứ 4 trong lịch sử liên minh phòng thủ NATO từ khi thành lập năm 1949, điều 4 Hiến chương của khối được một quốc gia thành viên kích hoạt để tham vấn các đồng minh. Lần đầu tiên chiến đấu cơ NATO được huy động để hủy diệt mục tiêu xâm nhập không phận của một thành viên. Chính trong bối cảnh đó, các quan sát viên quân đội Mỹ đã được mời tham dự cuộc tập trận Zapad vào hai ngày cuối, 15 và 16/09.  Trước đó, ngày 11/09, chính quyền Minsk trả tự do cho 52 tù nhân nhiều quốc tịch, trong đó có 14 công dân nước ngoài và nhiều tù nhân chính trị Belarus, gồm cả ông Nikolai Statkevich, ứng cử viên tổng thống Belarus năm 2010 (người đã không chấp nhận đi ra nước ngoài, nên sau đó bị đưa trở lại nhà tù). Tuyên bố trả tự do cho tù nhân nói trên được đưa ra vào lúc luật sư John Coale, đặc sứ của tổng thống Trump, dẫn đầu một phái đoàn Mỹ đến Minsk. Cũng trong dịp này, phía Mỹ thông báo mở lại sứ quán tại Belarus, bị đóng cửa năm 2022 sau khi Nga xâm lược Ukraina, dùng Belarus làm bàn đạp tấn công Ukraina từ phía bắc. Trước đó, quan hệ giữa chính quyền Trump và Belarus đã có một bước tiến đáng kể. Hồi cuối tháng 6/2025, đặc phái viên của tổng thống Mỹ về Ukraina, ông Keith Kellogg, công du Belarus. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa một quan chức cấp cao Nhà Trắng và nhà độc tài Belarus từ 5 năm nay, và chuyến thăm đã « đánh dấu một bước ngoặt lớn » so với chính sách của tổng thống tiền nhiệm Joe Biden. Trong dịp này chế độ Lukashenko đã trả tự do cho 14 tù nhân chính trị Belarus, trong đó có ông Sergei Tikhanovsky, lãnh đạo đối lập, bị bắt giam khi cổ vũ cho phong trào biểu tình phản đối chính quyền trước cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Ông Tikhanovsky là chồng của bà Sviatlana Tsikhanouskaya, lãnh đạo hiện tại của phong trào đối lập Belarus, tị nạn ở hải ngoại. Đọc thêm : Quốc Hội Belarus « hợp thức hóa » trấn áp phong trào đòi dân chủ Trước khi bay đi Alaska hội kiến với tổng thống Nga Vladimir Putin ngày 15/08, ông Trump đã gọi điện cho tổng thống Lukashenko. Sau cuộc điện đàm, ông Trump gọi nhà độc tài Belarus, hiện không được các nước phương Tây công nhận sau cuộc bầu cử bị lên án là gian lận, là « vị tổng thống rất đáng kính », cho biết đã nhận lời mời thăm Belarus và « nóng lòng » gặp mặt đồng nhiệm. Vì sao Trump và chế độ Minsk nhanh chóng xích lại gần nhau ? Điểm chung bề ngoài có thể thấy rõ giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà độc tài Belarus là hai bên có sự gặp gỡ về quan điểm trong việc ủng hộ việc tìm giải pháp cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina. Hãng thông tấn Nhà nước Belarus Belta, trong một bài viết hồi cuối tháng 8/2025 (« Lukashenko: Trump excelled as a mediator during Alaska talks / Tổng thống Belaurs : Trump là một nhà trung gian tuyệt vời tại cuộc đối thoại Alaska »), cho biết tổng thống Belarus đã ca ngợi lãnh đạo Mỹ, bênh vực cuộc thượng đỉnh Alakska, bị không ít người lên án là đã quá nhân nhượng Putin. Một chuyên gia hàng đầu về Belarus, ông Artyom Shraibman, trong một bài trả lời phỏng vấn, với chủ đề chính « Những gì diễn ra trong lòng Belarus » (What’s Going On Inside Belarus), đăng tải cuối tháng 8/2025 trên trang Carnegie Russia Eurasia Center, đã ghi nhận các nỗ lực bình thường hóa quan hệ Mỹ - Belarus diễn ra vào thời điểm mà các đàm phán giữa Mỹ và Nga nhằm tìm giải pháp chấm dứt xung đột Ukraina « rõ ràng đang bị đình trệ ». Đọc thêm : Hạn định 50 ngày với Nga và rủi ro bế tắc chính trị cho Donald Trump Tổng thống Trump đã tuyên bố chấm dứt chiến tranh 24 giờ sau khi nhậm chức, rồi sau đó triển hạn thêm 6 tháng. Nửa năm đã trôi qua, cuộc xung đột tiếp diễn. Không có gì cho thấy là Nga từ bỏ các tham vọng tối đa về Ukraina, như chiếm lĩnh nhiều vùng lãnh thổ của Ukraina, đòi Ukraina phi quân sự hóa. Theo chuyên gia Artyom Shraibman, trong lúc tổng thống Lukashenko tìm cách thoát thế cô lập, dùng việc trả tự do cho các tù nhân chính trị  đổi lại việc dỡ bỏ trừng phạt, và cải thiện quan hệ với Mỹ, ông Trump muốn phá thế bế tắc trong các đàm phán với Nga về chấm dứt chiến tranh Ukraina, thông qua Belarus. Mỹ bình thường hoá quan hệ với Belarus : « Con đường vòng » để Washington bỏ cấm vận Nga ? Việc Mỹ đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với Belarus, quốc gia đàn em của Nga, được một số nhà quan sát xem như mang lại nhiều lợi thế cho điện Kremlin. Nhà báo Marie Jégo, của Le Monde, chuyên về Nga, cựu thông tín viên tại Matxcơva, trong bài « Sự nhượng bộ hoàn toàn của Trump đối với Putin », nêu bật : « Về những điều đã xảy ra, cá nhân tôi thấy khá là bất ngờ. Và đây là điều đã không được các chuyên gia và nhà quan sát thực sự chú ý. Đó là vụ xâm nhập bằng drone của Nga vào bầu trời Ba Lan, và chỉ một ngày sau sự kiện này, nước Mỹ đã cử một đặc phái viên đến Minsk. Mỹ đã đạt được thỏa thuận với nhà độc tài Lukashenko, người được Matxcơva coi là một quân cờ, và chính Belarus là nơi khởi nguồn của cuộc tấn công xâm lược Ukraina của Nga. Và từ Belarus, mà tên lửa đã bắn vào Ukraina. Belarus đã can dự rất nhiều vào cuộc chiến này. Vậy là người Mỹ đã đến đó chỉ một ngày sau sự kiện kinh hoàng drone Nga xâm nhập. Họ đã đến đó. Và đã có một cuộc đàm phán. Ông Lukashenko đã thả 52 tù nhân chính trị. Riêng điều này thì chúng tôi rất vui. Đây là điều tốt. Nhưng mặt khác, chính quyền Mỹ cũng cho biết họ đang dỡ bỏ các trừng phạt, đặc biệt là đối với lĩnh vực hàng không dân dụng của Belarus. Điều đó có nghĩa là Belarus giờ đây sẽ có thể nhận được phụ tùng thay thế từ hãng Boeing của Mỹ. Và nếu như Belarus được như vậy, thì Nga cũng sẽ là nước nhận được. Như vậy, có thể nói, đây là một con đường vòng để dỡ bỏ các trừng phạt Nga. » Đọc thêm : Mỹ « bình thường hóa » quan hệ với Nga: Ác mộng với châu Âu và Ukraina? Trang mạng chuyên về chính trị Quốc tế Politico.eu, có bài ghi nhận về « nguy cơ tan vỡ » của mặt trận Mỹ - Âu trừng phạt Nga.   Minsk với thế đi dây một thời giữa nước Nga Putin và châu Âu dân chủ Trước cuộc xâm lăng Ukraina của Nga, kể từ khi lên cầm quyền năm 1994, tổng thống Belarus đã xây dựng chiến lược cân bằng giữa hai đối cực, giữa nước Nga của Putin và châu Âu dân chủ. Chế độ Lukashenko đã lợi dụng vị thế địa-chiến lược đặc biệt nằm ở giữa Liên Âu và Nga để thực thi chính sách « đi dây ». Belarus phụ thuộc vào Nga về năng lượng, quân sự và chính trị, nhưng mặt khác chính sách cởi mở có chọn lọc của quốc gia thành viên Liên Xô cũ này với Liên Âu đã giúp cho Minsk được nhiều lợi thế về kinh tế. Chuyên gia về Belarus, Artyom Shraibman, trên Carnegie Endowment for International Peace, trong bài « Not So Quiet on the Eastern Front: Elements of a Risk Management Strategy Toward Belarus » (Mặt trận phía Đông không quá yên tĩnh: Một số đề xuất về chiến lược quản lý rủi ro đối với Belarus) (6/2025) ghi nhận : « Cho đến năm 2020 (tức trước cuộc bầu cử tổng thống bị lên án là gian lận), ông Lukashenko đã tìm cách duy trì thế cân bằng mong manh của Belarus giữa phương Tây và Nga, đòi phần thưởng từ mỗi bên để đổi lấy việc không xích lại gần bên kia. Chìa khóa cho chiến thuật này là khả năng của Minsk trong việc xử lý mối quan hệ với Nga như một con lắc (pendulum). Sự linh hoạt đó đã đột ng

    9 min
  7. 18 SEPT

    Hạt nhân Iran và vai trò « bị lãng quên » của phương Tây

    Ngày 28/08/2025, Anh, Pháp và Đức đã dọa kích hoạt cơ chế tái áp đặt các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, còn được gọi là « snapback », vào lúc thỏa thuận về hạt nhân Iran ký kết 2015 sắp hết hiệu lực ngày 18/10/2025. Nhưng ít ai biết rằng, trong quá khứ, một số nước phương Tây, đặc biệt là Pháp, đã từng đóng góp tích cực vào việc khai sinh chương trình hạt nhân Iran. Một mảng tối khác trong mối quan hệ căng thẳng giữa Iran và phương Tây. Ngược dòng thời gian, vào năm 1957, vào lúc châu Âu đang vực dậy từ nỗi kinh hoàng của Đệ Nhị Thế Chiến, Iran, dưới sự trị vì của vua Mohammad Reza Pahlavi, đã bắt tay vào việc tìm kiếm năng lượng nguyên tử. Quốc vương Iran lo sợ rằng dầu hỏa mà đất nước phụ thuộc một ngày nào đó sẽ cạn kiệt và do vậy phải tìm kiếm một giải pháp thay thế. Atome For Peace : Đổi hạt nhân lấy dầu lửa Một dự án điện hạt nhân dân sự được hình thành qua sự trợ giúp của chương trình « Atom for Peace – Nguyên tử vì hòa bình », do tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower khởi xướng từ năm 1953. Cũng như nhiều nước thành viên khác của chương trình, Iran cam kết giới hạn sử dụng hạt nhân cho mục đích hòa bình. Đổi lại, Hoa Kỳ đào tạo các nhà khoa học Iran và cung cấp các trang thiết bị cho Teheran, bao gồm lò phản ứng nghiên cứu được thiết kế vào năm 1967 để sản xuất đồng vị phóng xạ dùng trong y tế. Quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước kéo dài cho đến cuối những năm 1970. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), vào tháng 12/2022, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, chuyên gia về phổ biến hạt nhân Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) giải thích « trong những năm 1950, dưới thời quốc vương Iran, mối quan hệ giữa Mỹ và Iran rất bền chặt. Hoa Kỳ đã đưa Iran vào chương trình Atom For Peace (Nguyên tử vì hòa bình), được sử dụng để phát triển chương trình hạt nhân dân sự cho Iran, để đổi lấy dầu lửa và sự bảo đảm rằng quốc gia này sẽ duy trì một chế độ ổn định gần gũi với Hoa Kỳ ». Tuy nhiên, vào lúc diễn ra Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ ngày càng lo lắng khi thấy xuất hiện nhiều cường quốc hạt nhân khác. Chương trình « Nguyên tử vì hòa bình » có nguy cơ phản tác dụng. Năm 1968, Iran gia nhập Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân TNP và đặt các cơ sở hạt nhân của mình dưới sự giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (AIEA). Nhưng quốc vương Iran có tham vọng xây thêm 20 lò phản ứng, đồng thời bày tỏ quan tâm đối với một số công nghệ. Điều này đã khiến Mỹ lo ngại, nhất là đối với kỹ thuật tách rời plutonium hoặc làm giầu uranium. Mặc dù mục tiêu nêu ra vẫn mang tính dân sự, Washington nghi ngờ vua Iran âm thầm thèm khát vũ khí nguyên tử. Clément Therme, giáo viên tại Đại học Paul-Valéry tại Montpellier, trong chương trình Giải Mã (19/05/2025) của kênh truyền hình ARTE nhắc lại, « ngay từ tháng 12/1975, Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA) đã đánh giá rằng Iran rất có thể sẽ trang bị hệ thống vũ khí hạt nhân vào năm 1985. Vì vậy, ngay từ những năm 1970, đã có những nghi vấn về mục đích dân sự hay quân sự của chương trình Iran ». Pháp, Đức thay chân Mỹ Trước mối ngờ vực từ Mỹ, quốc vương Iran chuyển hướng tìm kiếm các đối tác châu Âu, được đánh giá là « ít quan tâm » đến những vấn đề được nêu trên, theo như nhận định của François Nicoullaud, cựu đại sứ Pháp ở Téhéran, trong bài viết đề tựa « La France et la négociation avec l’Iran » (Pháp và cuộc đàm phán với Iran). Pháp và Tây Đức thời đó đang chạy theo vàng đen của Iran. Cú sốc dầu hỏa năm 1973 biến Teheran thành một đối tác thiết yếu và ưu tiên cho Paris. Trong một bài giải thích, trang RFI tiếng Pháp nhắc lại, ngay từ năm 1974, bộ trưởng Tài Chính lúc bấy giờ là Jean-Pierre Fourcade đã ký kết rất nhiều hợp đồng với Iran để bảo đảm nguồn cung dầu khí cho đất nước. Teheran là nhà cung cấp nhiên liệu thứ hai cho Paris. « Chuyến thăm của Quốc vương tới Marcoule có ý nghĩa quan trọng hơn sau thông báo đặt xây năm nhà máy điện hạt nhân được xác nhận hôm qua và các thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp uranium làm giàu cho Iran. » (France 2 ngày 25/06/1974) Trên đây là lời bình của bản tin lúc 20 giờ kênh truyền hình Pháp France 2 ngày 25/06/1974, nhân chuyến thăm của quốc vương Iran đến Pháp và trung tâm khai thác điện hạt nhân ở Marcoule vùng Gard, đông nam Pháp. Được xây dựng vào năm 1956, cơ sở công nghiệp này từng là mũi nhọn cho ngành năng lượng hạt nhân Pháp, cả về sản xuất điện lẫn sử dụng cho mục đích quân sự. Với hợp đồng trị giá gần 5 tỷ đô la – một khoản tiền « khổng lồ » theo như tuyên bố của bộ trưởng Tài Chính Jean-Pierre Fourcade – Pháp thay thế Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân bất chấp những ngờ vực của Washington. Paris cam kết đào tạo nhân sự và cung cấp các nhà máy điện hạt nhân cho Teheran như hai lò phản ứng tại Ahvaz miền nam Iran do tập đoàn Framatome của Pháp xây dựng. Nước Đức cũng không kém cạnh. KraftWerk Union, một chi nhánh của tập đoàn năng lượng Siemens, trúng thầu xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân ở Bushehr, miền nam Iran, trị giá 7,8 tỷ mác Đức. Chính quyền Berlin còn ký kết một thỏa thuận về hợp tác hạt nhân với vua Iran, tương tự như « hợp đồng thế kỷ », được ký một năm trước đó với Brazil. Cổ đông Eurodif : Tham vọng hạt nhân của vua Iran ? Tuy nhiên, việc các nước đồng minh mới châu Âu có những hứa hẹn tham gia tích cực vào chương trình phát triển hạt nhân Iran càng củng cố hơn nỗi lo lắng từ Mỹ. Không những vua Iran tự cung cấp phương tiện cho các tham vọng của mình và cùng với những thỏa thuận khác nhau, quốc vương Mohammad Reza còn biến nước ông thành một trong những nhà đầu tư chính cho ngành hạt nhân Pháp. Trong khuôn khổ thỏa thuận hợp tác đầu tư Eurodif - European Gaseous Diffusion Uranium Enrichissement Consortium - quốc vương Iran cho Pháp vay một tỷ đô la để xây dựng nhà máy làm giầu chất uranium Tricastin và sở hữu 10% vốn của Eurodif. Đổi lại, Iran bảo đảm lấy đi 10% chất uranium làm giầu do Eurodif sản xuất. Nhìn lại lịch sử, người ta không khỏi đặt nghi vấn về ý định quân sự của vua Iran. Một công nghệ « lưỡng dụng » uranium làm giàu có thể được sử dụng cả cho các nhà máy điện hạt nhân lẫn các đầu đạn được chế tạo theo mô hình Little Boy, từng được sử dụng để san bằng Hiroshima. Trong cuộc chạy đua vũ trang thời Chiến Tranh Lạnh, liệu quốc vương Iran có muốn trang bị vũ khí hạt nhân cho đất nước mình hay không ? Theo báo Pháp Le Monde, ngày 20/07/2025, trong bài viết dài đề tựa « Khi Pháp hứa hẹn uranium làm giầu cho Iran, nguồn cội của một hiệp ước hạt nhân đáng nguyền rủa », Akbar Etemad, chủ tịch Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Iran (1974 – 1978) trước ống kính trong một bộ phim tài liệu của France 2 phát sóng ngày 08/10/2017, kể lại ông đã chất vấn Quốc vương như thế nào: « Liệu chúng ta có thể cân nhắc phương án quân sự hay không ? Ông ấy nói với tôi là 'Tại sao không?' Tôi hiểu rằng nhiệm vụ của tôi là phát triển tất cả các công nghệ cần thiết để sẵn sàng triển khai bom hạt nhân ». Vào thời điểm đó, Mohammad Reza Pahlavi khẳng định ông không cần đến bom nguyên tử. Dù không thể chắc chắn, châu Âu đã tin lời ông. Ngoại trưởng Pháp Jean-François Poncet (1978 – 1981), trong một chương trình phim tài liệu của kênh ARTE, khẳng định rằng, « tất cả các biện pháp phòng ngừa luôn được đặt ra để đảm bảo những gì chúng tôi thực hiện về phát triển hạt nhân với Iran sẽ không được sử dụng cho mục đích quân sự. » Cách mạng Hồi giáo 1979 và các cuộc khủng hoảng Pháp - Iran Nhưng cuộc Cách mạng Hồi giáo 1979 bùng nổ, buộc vua Iran phải sống lưu vong, chương trình hạt nhân của ông cũng tan theo. Đại giáo chủ Khomeini lên cầm quyền và chính quyền mới cho ngưng tất cả các hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cũng như mua chất uranium. Hai tập đoàn Framatome của Pháp và KWU của Đức chấm dứt công trình và cho hồi hương các nhân viên. Ngoài ra, Teheran còn đòi Paris phải hoàn trả tiền

    11 min
  8. 11 SEPT

    Chấm dứt xung đột tại Ukraina: Mỹ, Nga đổ dồn trách nhiệm lên châu Âu

    Tám tháng kể từ khi Donald Trump trở lại nắm quyền, cuộc xâm lăng Ukraina của Nga không có dấu hiệu chấm dứt bất chấp các vận động ngoại giao của tổng thống Mỹ, được quảng bá rầm rộ là có thể làm thay đổi lập trường của điện Kremlin. Vào lúc khả năng đạt được ngừng bắn tại Ukraina trở nên xa vời, châu Âu bị Nga lên án làm « thất bại » các nỗ lực hướng đến hòa bình. Phe cầm quyền tại Mỹ đòi hỏi châu Âu đóng góp nhiều hơn nữa trong hồ sơ Ukraina. Mỹ và Nga đổ dồn trách nhiệm lên châu Âu trong vấn đề chiến tranh Ukraina như thế nào ? Lối thoát nào với châu Âu trong tình thế nhiều phần bế tắc hiện nay ? *** Ngày 04/09/2025, hơn 30 quốc gia thuộc « Liên minh tình nguyện » bảo đảm an ninh cho Ukraina họp tại Paris và trực tuyến dưới sự chủ tọa của tổng thống Pháp và thủ tướng Anh. Sau hội nghị này, 26 quốc gia cam kết sẽ triển khai lực lượng tại Ukraina để bảo đảm an ninh một khi xung đột chấm dứt. « Liên minh tình nguyện » đã được gấp rút lập ra theo sáng kiến của Pháp và Anh, trong bối cảnh tân chính quyền Trump đe dọa đàm phán riêng rẽ với Nga về chiến tranh Ukraina, và để ngỏ khả năng không tuân thủ điều 5 của Hiến chương NATO, cam kết bảo vệ các đồng minh. « Lực lượng bảo đảm an ninh » cho Ukraina : « Chiếc vé » giúp châu Âu tham gia đàm phán ? Châu Âu lên tuyến đầu. Việc thành lập « Liên minh tình nguyện » giúp châu Âu khẳng định vị thế. Trả lời phỏng vấn đài France Info, hồi đầu tháng 5/2025, chuyên gia Jean de Gliniasty, cựu đại sứ Pháp tại Nga, giám đốc nghiên cứu Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), nhận định : Liên minh tình nguyện từng được coi như một « chiếc vé » vào cửa, cho phép Châu Âu có chỗ tại bàn đàm phán về giải pháp chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, đây là một chiếc vé bấp bênh bởi phụ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ: « Vậy là ở đây chúng ta từng có một thứ như kiểu vé vào cửa. Ông Trump đã từng nói châu Âu ‘‘bất tài’’ và ‘‘không có vé vào cửa’’, không có chỗ ngồi ở bàn đàm phán. Mà cái vé vào cửa mà chúng ta có thể có, đó chính là mang lại ‘‘các bảo đảm an ninh’’. Bởi vì chính Mỹ cũng đã nói họ sẽ không đưa một binh sĩ nào đến để bảo vệ Ukraina, và việc đảm bảo an ninh phải do chính người châu Âu lo liệu. Chính vì thế mà châu Âu đã thực thi một chút nghĩa vụ của mình. Hiện có 30 quốc gia châu Âu sẵn sàng đưa quân đến để đảm bảo an ninh cho Ukraina. Nhưng Nga cho rằng những ‘‘bảo đảm an ninh’’ do Pháp và châu Âu đưa ra thực chất là với tư cách đồng minh của Ukraina, và như vậy là thù địch với Nga. Vì thế, họ không muốn. Thực ra chúng ta đang rơi vào bế tắc, và hiện tại chúng ta đã không còn ‘‘vé vào cửa’’ bàn đàm phán nữa ». Bốn tháng sau, vào thời điểm Liên minh tình nguyện được khẳng định mạnh mẽ hơn với cuộc họp tại Paris hôm 4/9, vẫn chuyên gia Jean de Gliniasty ghi nhận : « chiếc vé » vào bàn đàm phán của châu Âu vẫn « tạm thời bị đình chỉ », để chờ đợi các kết quả thương lượng giữa Mỹ và Nga. Vị thế « chiếu dưới » của châu Âu và cuộc phản công ngoại giao của Nga « hậu thượng đỉnh Alaska » Xin nhắc lại là ít tháng trước khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, trong bối cảnh Nga liên tục khẳng định muốn thương thuyết lại với phương Tây về việc khối NATO mở rộng về phía đông, và việc triển khai các hệ thống vũ khí tối tân tại nhiều nước láng giềng với Nga, các nước châu Âu đã gần như không có tiếng nói gì trong hồ sơ này. Chiến tranh bùng nổ, châu Âu bừng tỉnh, nỗ lực ban hành các biện pháp trừng phạt Nga, cùng với Mỹ, hậu thuẫn Ukraina về quân sự và nhiều mặt. Tuy nhiên, về các đàm phán chấm dứt chiến tranh, nhìn chung châu Âu không có tiếng nói. Nói một cách khác, châu Âu vốn phụ thuộc nặng nề vào Mỹ về mặt đảm bảo an ninh cho chính châu Âu, nên luôn ở vị thế chiếu dưới, khó có thể nào có được một vị trí đáng kể trong các thương lượng về viễn cảnh chấm dứt chiến tranh Ukraina kể từ khi chiến tranh bùng nổ. Không những thế, sau cuộc thượng đỉnh Trump – Putin tại Alaska, Mỹ, ngày 15/08/2025, chế độ Putin thoát khỏi thế cô lập tương đối về ngoại giao, đã tranh thủ cơ hội để phản công châu Âu. Nga đổ lỗi cho châu Âu về bất kỳ thất bại nào trong các đàm phán tương lai, cáo buộc châu Âu trở thành « trở ngại chính » do thúc đẩy đối đầu về ý thức hệ, trong lúc Trump và Putin nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận. Nhật báo thân điện Kremlin Izvestia mỉa mai « Bruxelles và Kiev đang thành trở ngại chính cho hòa bình ». Một nguồn tin gần gũi với điện Kremlin tung ra quan điểm « lần đầu tiên, có một cơ hội thực sự để bắt đầu đàm phán với Ukraina và châu Âu về tất cả các vấn đề cần giải quyết để chấm dứt chiến tranh, thế nhưng giờ đây xuất hiện một vấn đề nan giải thực sự đối với châu Âu, đang mắc kẹt trong ngõ cụt về tư tưởng. Đó là họ đang bảo vệ những nguyên tắc trừu tượng trong khi hàng trăm nghìn người đã bỏ mạng trong chiến tranh. Cuộc chiến mà Kiev đã thua trên thực tế cần phải được chấm dứt, chứ không phải cứ tiếp tục cho đến khi Ukraina bị hủy diệt hoàn toàn ». Tổng thống Nga « hy vọng châu Âu sẽ không cố gắng phá hoại tiến trình này bằng những hành động khiêu khích hoặc những âm mưu trong hậu trường ». Người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Nga Maria Zakharova mỉa mai : « Tinh thần đồng đội của ‘‘liên minh’’ Starmer-Macron-Merz-Rutte-von der Leyen (tức các lãnh đạo Anh, Pháp, Đức, NATO và Ủy Ban Châu Âu), vẫn tỏ ra hung hăng trong cuộc đối đầu với Nga, Ukraina đã bị họ biến thành một con tin đắt giá ». Trump mềm mỏng với Nga, điện Kremlin không khoan nhượng: Châu Âu kẹt giữa hai làn đạn Chính sách của tổng thống Mỹ thúc đẩy đàm phán ngoại giao với Nga từng được coi là mang lại hy vọng cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina trong thời gian ông Trump mới lên cầm quyền, như ghi nhận của cựu đại sứ Jean de Gliniasty : « Chúng ta đang ở thời điểm giữa chừng của một cuộc vận động ngoại giao kiểu truyền thống, tức là ngoại giao “từng bước nhỏ”, giống như những gì chúng ta đã chứng kiến sau cuộc Chiến tranh Kippur tháng 10/1973 (liên quân Ai Cập và Syria tấn công Israel), khi ngoại trưởng Mỹ Kissinger đã phải đi đi lại lại khoảng 15 lần giữa Tel-Aviv, Jerusalem và Cairo, đi qua đi lại giữa các bên, và mỗi lần như vậy đều mang về những tiến bộ rất nhỏ, nhưng cuối cùng thì đã thành công. Và thực ra, người Mỹ cũng rất giỏi trong việc này, đó là một truyền thống ngoại giao của họ. Vì vậy, chúng ta đang trong một tiến trình ngoại giao “tàu con thoi” và “từng bước nhỏ”, và tôi cho rằng chúng ta có thể hy vọng rằng cuối cùng nỗ lực này sẽ đạt được kết quả. »  Cựu đại sứ Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu (2010-2015), tức nhân vật số hai của ngành ngoại giao Liên Âu, đã sớm cảnh báo về nguy cơ các nước châu Âu bị kẹt giữa hai làn đạn của Mỹ và của Nga, trong bối cảnh tổng thống Donald Trump rất có thể  sẽ có nhiều nhân nhượng với Matxcơva : « Điều gây phiền toái hơn cho tất cả chúng ta, những người châu Âu, là liệu Trump có nhượng bộ thêm Putin để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn quan trọng hơn hay không. Như quý vị biết, hầu hết những yêu cầu mà Putin đưa ra đều rất khó có thể dung hòa với quan điểm và lợi ích của châu Âu. Ví dụ như Ukraina trung lập và phi quân sự hóa, Ukraina không được gia nhập NATO, hay không có sự hiện diện của quân đội châu Âu tại Ukraina, châu Âu không tiếp tục viện trợ quân sự cho Ukraina, v.v. Vì vậy, chúng ta đang ở trong một tình thế mà nếu ông Trump nhượng bộ cho tổng thống Nga một hoặc một số yêu cầu nào đó, thì chúng ta — những người châu Âu — sẽ lâm vào thế khó. Chúng ta sẽ phải nói rằng chúng ta không đồng ý và không chấp nhận những đề xuất này, và như vậy, chúng ta sẽ bị coi là bên cản trở tiến trình đạt được thỏa thuận ngừng bắn, mở ra viễn cảnh gi

    10 min

About

Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI

More From RFI Tiếng Việt

You Might Also Like