Tạp chí âm nhạc

Tạp chí âm nhạc

Góc vườn âm nhạc của RFI

  1. 4 DAYS AGO

    Lalo Schifrin, một đời cống hiến cho âm nhạc

    Chỉ cần nghe những nốt nhạc đầu, hầu như mọi người đều có thể nhận ra ngay nhạc chủ đề của loạt phim « Mission: Impossible » (Nhiệm vụ bất khả thi). Ban đầu được soạn cho phim truyền hình, giai điệu do Lalo Schifrin sáng tác tiếp tục chinh phục thế hệ thời nay qua loạt phim với thần tượng Tom Cruise trong vai chính (điệp viên Ethan Hunt). Ông vừa qua đời hôm 27/06/2025 tại Los Angeles hưởng thọ 93 tuổi. Thương hiệu « Nhiệm vụ bất khả thi » nổi tiếng trên toàn thế giới, đem lại danh vọng tiền tài cho nhà soạn nhạc người Argentina, thế nhưng chi tiết nổi bật ấy lại phần nào che khuất một sự nghiệp đồ sộ : sinh thời, Lalo Schifrin đã sáng tác hơn 100 album nhạc phim, gần 300 bản nhạc jazz và La Tinh, 60 tác phẩm thính phòng (kể cả concerto và giao hưởng)… Trong suốt sự nghiệp trải dài trên 6 thập niên, Lalo Schifrin đã gặt hái nhiều thành công và luôn hòa quyện nhiều thể loại với nhau, ông tạo ra được một ngôn ngữ âm nhạc tuy có nguồn gốc hàn lâm, nhưng vẫn dễ tiếp cận.   Sinh trưởng tại thủ đô Argentina (1932-2025), Lalo Schifrin đã nối bước thân phụ, nguyên là nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc giao hưởng thành phố Buenos Aires tại Nhà hát lớn Teatro Colón (có từ năm 1857). Thời còn nhỏ, ông được đào tạo bài bản về âm nhạc, ông thích cả hai dòng nhạc jazz và cổ điển, nhưng lại không muốn giới hạn mình ở một trường phái nào.   Trong quyển hồi ký của mình « My life in music », ông kể lại thời gian ông tầm sư học đạo ở Paris (1952-1956), dưới sự hướng dẫn của hai nhạc sư Olivier Messiaen và Nadia Boulanger. Để kiếm sống, ông bắt đầu chơi đàn piano trong các quán nhạc jazz trên khu phố Saint Germain des Prés. Tài nghệ chơi đàn của ông lọt vao tai nghệ sĩ nhạc jazz nổi tiếng Dizzy Gillespie. Từ cuộc gặp gỡ quan trọng này, Lalo Schifrin vào đầu những năm 1960, đã sáng tác cho Dizzy Gillespie nhiều tác phẩm quan trọng, trong đó có « Gillespiana », nhờ vậy mà tạo dựng dược uy tín của một tài năng mới với các hãng ghi âm nhạc jazz của Mỹ, đồng thời giúp phổ biến dòng nhạc bossa nova ở Hoa Kỳ.  Nhạc jazz chính là bệ phóng đưa ông vào quỹ đạo thành công của làng nhạc phim. Ông sáng tác bản nhạc chủ đề đầu tiên của mình vào năm 1964 cho bộ phim Pháp « Les Félins » của đạo diễn René Clément với Jane Fonda và Alain Delon trong vai chính. Sau này, ông cho biết là thành công trong sự nghiệp của ông một phần là do đạo diễn người Pháp, đã tạo cơ hội cho ông phát huy tài năng, phá vỡ các quy tắc và kết hợp nhạc giao hưởng với nhạc jazz và âm thanh thử nghiệm.   Một chi tiết nổi bật che khuất sự nghiệp đồ sộ Từ giữa những năm 1960 trở đi, sau thành công ngoạn mục của « Nhiệm vụ bất khả thi », Lalo Schifrin trở thành một trong những tên tuổi lớn ở Hollywood, được nhiều nhà sản xuất mời hợp tác. Ông sáng tác nhạc nền cho nhiều bộ phim nổi tiếng như « Bullitt » với Steve McQueen (1968), « Dirty Harry » với Clint Eastwood (1971), « Mãnh Long Quá Giang » của Lý Tiểu Long (1973), loạt phim truyền hình « Starsky & Hutch » (1975), « Brubaker » với Robert Redford (1980) « Tango » của Carlos Saura (1997), cũng như loạt phim « Rush Hour » (1998-2007) với Chris Tucker và Thành Long (Jackie Chan) trong vai chính…  Trong quyển hồi ký, ông cho biết là tại quán căng tin của hãng phim MGM, ông là một trong những người được ngồi cùng bàn với tác giả đàn anh Bernard Herrmann (1911-1975), nhà soạn nhạc trứ danh của các bộ phim ăn khách nhất của Alfred Hitchcock (Psycho, Vertigo, North by Northwest ….). Cả hai tác giả thường trao đổi quan điểm về nhạc sĩ Saint-Saëns, đôi bên đều tạo cầu nối giữa các thể loại âm nhạc, để tạo ra một ngôn ngữ chung dễ tiếp cận.   Trong sáng tác, Lalo Schifrin thường hay dùng thủ pháp « đối âm », khá phổ biến trong hai dòng nhạc thời Phục Hưng và Baroque. Tuy không thể tinh tế bằng bậc thầy Ravel hay táo bạo như Stravinsky, nhưng cách dùng đối âm, vận hành song song ít nhất là hai giai điệu, hai vế chuyển động linh hoạt mà vẫn hài hòa, cân đối nhờ được kết hợp chặt chẽ, Lalo Schifrin đã nâng nhạc phim lên một tầm cao mới, các bản hòa âm đa tầng phức điệu mà rất dễ lọt tai, bất cứ ai thoáng nghe đều có thể nhận ra ngay.   Dựa vào kiến thức âm nhạc phong phú, nếu không nói là bách khoa toàn thư, Lalo Schifrin đã tìm cách tạo dựng một dòng nhạc không biên giới. Ông không ngại phá vỡ những quy tắc để tìm cách đẩy lùi giới hạn, xóa bỏ những rào cản giữa các trường phái hay thể loại âm nhạc. Ngày ông vĩnh viễn ra đi, Lalo Schifrin đã thực sự hoàn thành nhiệm vụ tưởng chừng như… bất khả thi.

    9 min
  2. 28 JUN

    Mùi hương kỷ niệm, tuyển tập đầu tiên của Yann Muller

    Madeleine, hiểu theo nghĩa đen là bánh vỏ sò, còn hiểu theo nghĩa bóng là Mùi hương kỷ niệm. Đây là tựa đề tuyển tập các bản nhạc cover tiếng Pháp đầu tay của nhà hòa âm Yann Muller. Thành danh từ khoảng một thập niên nay, Yann Muller chủ yếu phát hành trực tuyến các bản hòa âm của mình, nhưng đây lại là lần đầu tiên anh cho ra mắt album trên CD. Bao gồm 12 bản nhạc tiếng Pháp quen thuộc với lối hòa âm mới, tuyển tập của Yann Muller bắt nhịp cầu với quá khứ, mùi hương nào (của chiếc bánh madeleine của Proust) thoảng bay rất nhẹ lại tạo cơ hội cho người nghe tìm lại nhiều kỷ niệm đẹp theo điệu ru trong nắng hè. Madeleine không chỉ là một album đơn thuần, mà còn tôn vinh các bản nhạc Pháp kinh điển, một lời tri ân dành cho gia đình vì theo Yann Muller, hầu hết cac bản nhạc đều gắn liền với những kỷ niệm thời thơ ấu, những giai điệu anh từng được nghe khi còn nhỏ ở trong nhà, trên xe hơi hoặc khi đi nghỉ hè cùng với bố mẹ và người thân. Các bản hòa âm của Yann Muller vì thế dễ chạm đến trái tim của người nghe thuộc nhiều thế hệ, do các bài hát phản ánh hơn nửa thế kỷ nhạc Pháp, từ Françoise Hardy, France Gall, Dalida, Céline Dion cho đến Michel Delpech ….. Sinh trưởng tại thành phố Nice, Yann Muller vào nghề ban đầu như một tay DeeJay, chuyên hòa nhạc vào những dịp cuối tuần tại quán cà phê lớn trên quảng trường Place des Lices ở trung tâm thị trấn Saint Tropez. Ngay từ những năm tháng đầu, Yann Muller thu hút được sự chú ý của công chúng vì anh chơi nhạc Pháp với phong cách nhạc pop điện tử. Các bài hát do anh hòa âm, đều là những giai điệu quen thuộc cho nên người nghe khi bước ra sàn nhảy, đều có thể hát theo. Khi mới vào nghề, Yann Muller chọn hòa âm như một thú giải trí, nhưng đến khi chia sẻ trên mạng (chủ yếu là Spotify, Deezer và YouTube) nào ngờ các bản hoà âm của anh lại chạm ngưỡng một tỷ lượt stream trên các mạng trực tuyến. Vì thế cho nên, trong nam nay,  anh mới có ý tưởng phát hành CD, tập hợp các bản hòa âm chọn lọc, yêu thích nhất của mình. Yann Muller đã gầy dựng tên tuổi của mình bằng cách « đọc lại » những nhạc phẩm kinh điển của Pháp theo lối hòa âm tân thời, hiện đại. Thế giới âm thanh của Yann Muller thường là pop điện tử, những giai điệu đầy sức cuốn hút, nhịp đập sôi động mà vẫn dịu dàng. Anh hòa quyện những giai điệu nhạc pop với soul, jazz và thậm chí bossa nova với các nhịp điệu lôi cuốn, cách sử dụng nhạc khí như ghi ta, piano hay kèn dông đem lại cho các bản hòa âm nhiều sắc thái, khi thì ấm nồng lúc thì cháy bỏng . Không phải ngẫu nhiên tập nhạc đầu tiên của Yaan Muller được phát hành vào dịp đầu hè, âm thanh tropical house hay reggae chính là những nhịp điệu nhẹ nhàng dễ nghe nhất vào mùa hạ. Trên số 12 bản hòa âm mới của tập nhạc Madeleine, không phải bản nào cũng vượt trội. Có lẽ do vấn đề tác quyền, Yaan Muller không thể đụng đến bản gốc, mà phải làm lại toàn bộ ca khúc bằng cách chọn những giọng ca sao cho thật gần với nguyên tác. Những bản cover của anh theo phong cách nhạc nhảy khó mà qua mặt nổi các bản gốc của Céline Dion (Prière païenne / Pour que tu m'aimes encore) hay của Jean Jacques Lafon (Le géant de papier / Lạc mất mùa xuân). Ngược lại, trong vai trò của một nhà beatmaker, Yann Muller lại thành công khi hòa quyện nhiều luồng ảnh hưởng để tạo ra một nhịp đập mới cho bài hát trên các giai điệu như Mourir sur scène (Chết trên sân khấu) hay Laissez moi danser (Khiêu vũ bên nhau). Âm thanh của Yaan Muller linh động uyển chuyển, nhưng lại phảng phất lưu luyến chứa chan hoài niệm. Nhà hòa âm đưa vào trong những bản nhạc của mình nhiều tầng lớp và hiệu ứng âm thanh, khai thác không gian hồi tưởng mơ mộng, ký ức cô đọng để tạo thành một cõi muôn trùng, dập dìu nhịp sóng.

    9 min
  3. 21 JUN

    "Khi anh cần em", phiên bản lời Việt của nhạc phẩm "When I need you"

    Trong làng nhạc pop quốc tế, When I need you thuộc vào hàng ca khúc kinh điển, được nhiều nghệ sĩ hàng đầu ghi âm lại. Bản tiếng Pháp (Je pardonne) là của Sylvie Vartan, còn phiên bản tiếng Anh từng ăn khách qua các giọng ca trứ danh như Céline Dion, Rod Stewart và nhất là Julio Iglesias. Bài này từng được đặt thêm lời Việt thành nhạc phẩm Khi anh cần em. Ông hoàng nhạc tình người Tây Ban Nha Julio Iglesias ghi âm lại bài hát When I need you cho album Starry Night gồm các giai điệu cover, phát hành vào năm 1990, thời ông hợp tác với nhạc sĩ người Anh Albert Hammond. Cũng chính Albert Hammond đã giúp cho Julio chinh phục thị trường Anh-Mỹ khi soạn bài song ca Cho những người tôi yêu (To all the girls I've loved before) cho hai nam ca sĩ Julio Iglesias và Willie Nelson. Trong tiếng Việt, bài này từng được hai nam danh ca Tuấn Ngọc và Duy Quang ghi âm lại. Trong nguyên tác, When I need you là một bài hát nổi tiếng do Albert Hammond và Carole Bayer Sager đồng sáng tác. Bài này được phát hành lần đầu tiên vào năm 1976 như ca khúc chủ đề của album phòng thu cùng tên thứ 5 của Albert Hammond. Gần một năm sau đó, đến phiên ca sĩ Leo Sayer thành công với phiên bản của mình, do Richard Perry sản xuất. Bản nhạc này lập kỷ lục số bán trên thế giới, đạt vị trí quán quân trên thị trường Anh quốc vào đầu năm 1977, đồng thời giành hạng đầu bảng xếp hạng Billboard thi trường Hoa Kỳ. Trả lời phỏng vấn của hai nhà báo Jon Kutner và Spencer Leigh, đồng tác gia quyển sách 1000 UK #1 Hits, nam danh ca Leo Sayer cho biết anh rất ngưỡng mộ tài nghệ sáng tác của cặp bài trùng Sager/Hammond. Nhóm sáng tác này đã thành công với một loạt bản hit như Groovy kind of love, 99 miles from L.A hay It never rains in Southern California... Riêng giai điệu When I Need You nghe tuyệt vời như một bản nhạc blues, và Leo Sayer đã thu thanh bài này với lối phối khí theo thể loại phúc âm với tiếng đàn organ giống như nhạc phẩm I've been loving You too long của Otis Redding, nhưng sau đó Leo Sayer lại đổi ý và đã chọn một lối hòa âm nhẹ nhàng, phù hợp hơn với nội dung bài hát. Về mặt giai điệu, điệp khúc của When I need you giống hệt với một phần của bài hát Famous Blue Raincoat của ca sĩ kiêm tác giả người Canada Leonard Cohen (phút 1'15), đồng thời giai điệu có nhiều nét tương tự như trong bài hát Little Jeannie của Elton John, do vậy đã làm nảy sinh tranh chấp kiện tụng. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu âm nhạc, cách dùng hợp âm trong đoạn nhạc này khá phổ biên, từng được sử dụng từ lâu, từ thời của Schubert, cho nên giờ đây, bản quyền đã thuộc về miền công cộng. When I need you thành công lớn trên thị trường quốc tế, mỗi thập niên đều có phiên bản cover ăn khách. Giai điệu này từng được phóng tác sang 15 ngôn ngữ, kể cả tiếng Mã Lai và Quan thoại. Còn trong tiếng Việt, nhạc phẩm này đã có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời Việt đầu tiên Khi em lầm anh là của tác giả  Nhật Ngân qua phần trình bày của Don Hồ. Lời Việt thứ nhì Khi anh cần em do nam ca sĩ  Bằng Kiều tự đặt lời và ghi âm. Lời Việt thứ ba là của tác giả Song Nguyễn chuyển thành nhạc phẩm Tình vẫn hoài mong qua phần song ca của Tú Linh và Nguyễn Đức... "Khi bao nỗi nhớ ngập hồn, ta cần em như hơi thở, chỉ cần khép kín đôi mắt, đôi ta lại gần bên nhau. Gần nhau lòng ai nào thấy, xa rồi mới nhớ vòng tay, làn da hơi thở biết mấy, giữ anh ấm áp đêm ngày. Không sao quên nổi nụ cười, phải đi đến tận chân trời, phiêu lãng trọn đời mới hiểu, nhịp tim lệch mất một nguời..."

    9 min
  4. 14 JUN

    The Beach Boys : Hết rồi những « rung cảm tuyệt vời »

    Nhắc tới The Beach Boys, giới yêu nhạc nghĩ tới ngay những giai điệu vui tươi mùa hạ, ấm áp nắng hanh vàng, nhẹ nhàng như gió thoảng, lướt sóng biển nhịp nhàng. Nhờ vào trưởng nhóm Brian Wilson, ban nhạc The Beach Boys trở thành một trong những biểu tượng văn hóa Mỹ thập niên 1960. Tài năng ấy giờ đây không còn nữa. Brian Wilson vừa qua đời tại Mỹ hôm 11/06/2025, chỉ vài ngày trước khi ông ăn mừng sinh nhật 83 tuổi. Sinh trưởng tại Inglewood, bang California, Brian Wilson (1942-2025) lớn lên trong một gia đình đông con. Tuổi thơ của ông khá bất hạnh trong một gia đình thiếu hòa thuận, ông bố vũ phu (nhà quản lý kiêm nhạc sĩ Murry Wilson) thường hay đánh đập vợ con, vì là con trai cả, Brian thường hứng đón thay thế vì ông muốn che chở thân mẫu và đàn em (Dennis và Carl Wilson). Trong quyển hồi ký viết với nhà văn Ben Greenman, Brian Wilson cho biết khi còn nhỏ, ông đã bị điếc bên tai phải, chỉ vì bố ông đánh con mà không hề nương tay. Được thành lập vào năm 1961, nhóm The Beach Boys trong thời gian đầu được đặt dưới sự quản lý của ông bố, sáng tác và ghi âm những giai điệu bắt chước theo các bản nhạc rock ăn khách của Chuck Berry. Thế nhưng, tài nghệ của Brian Wilson cao hơn hẳn các nhạc sĩ cùng thế hệ. Chịu nhiều ảnh hưởng của Gerswhin, Brian Wilson đã nâng nhạc pop rock lên một tầm cao mới. Ông bắt tay vào việc thử nghiệm âm thanh, xen kẽ ca khúc với nhạc không lời, sử dụng âm thanh tiếng động tự nhiên, tận dụng những nhạc khí ít phổ biến thời bấy giờ. Kết quả là các nhạc phẩm như « Surfin' USA », « Wouldn't it be nice » hay « God only knows » (mà Paul McCartney đánh giá là một trong những bài hát hay nhất từng được viết) thường có lối hòa âm đa tầng phức hợp, lối hát bè nhuần nhuyễn tinh tế. Tập nhạc « Pet Sounds » (phát hành vào năm 1966 cùng thời với Good vibrations), một trong những dự án tiên phong của thể loại album concept trở thành một album để đời và thường được giới chuyên gia Tây phương xếp vào hàng 10 tập nhạc quan trọng nhất mọi thời đại. Brian Wilson có tư tưởng cầu toàn, cho nên tâm trí thường hay bị dằn vặt ám ảnh. Từ những nỗi ám ảnh ấy, ông đã cho ra đời những bản nhạc thuộc vào hàng kiệt tác, trong đó có nhạc phẩm « Good Vibrations » (Những rung cảm tuyệt vời) nói về khả năng ngoại cảm trước những rung động của vũ trụ. Để hoàn tất bài hát này, Brian Wilson đã thực hiện 19 đợt thu thanh và hòa âm. Từ 90 giờ ghi âm trên băng nhựa, ông đã hòa quyện kết nối để cho ra đời phiên bản hoàn chỉnh nhất. Cũng từ đó, Brian Wilson được mệnh danh là phù thủy âm thanh, bàn tay như thể có phép lạ để biến hóa nốt nhạc thành giai điệu muôn trùng, thu nhỏ càn khôn, biển trời sông núi, vào trong những bản giao hưởng bỏ túi. Người có tài cũng hay lắm tật. Những nỗi ám ảnh dằn vặt càng giúp giai điệu của Brian Wilson thăng hoa bao nhiêu, thì về mặt đời tư, cũng làm cho tinh thần của ông bị chìm sâu vào chứng trầm cảm bấy nhiêu. Kể từ giữa những năm 1970, Brian Wilson rơi vào vòng lẩn quẩn của nghiện ngập ma túy. Sự nghiệp sáng tác của ông vì thế cũng không còn xuất sắc như trước. Mãi đến hơn hai thập niên sau, khi ông gặp người vợ thứ nhì (1995), thì lúc ấy ngòi bút sáng tác của ông mới tìm lại niềm đam mê cháy bong của cái thuở ban đầu. Đối với giới sành điệu, ban nhạc The Beach Boys được xếp vào hàng đại thụ của làng nhạc rock, ngang hàng với nhóm Tứ Quái The Beatles và Những hòn đá lăn The Rolling Stones. Cuộc đối đầu giữa The Beatles và The Rolling Stones thực ra chỉ là khiên cưỡng giả tạo, do các nhà quản lý dàn dựng trên mặt báo để thu hút sự quan tâm của dư luận. Ngược lại, đã có một cuộc tranh tài thực thụ giữa phong trào lướt sóng ở California (The Beach Boys) và làn sóng âm nhạc đến từ Anh (The Beatles). Với ngày ra đi của Brian Wilson, làng nhạc quốc tế vừa đánh mất một tài năng ngang tầm với Paul McCartney. Đối với giới hâm mộ The Beach Boys, giờ đây không còn những giai điệu tươi rói, từ nay hết rồi những rung cảm tuyệt vời.

    9 min
  5. 7 JUN

    Nhạc ngoại lời Việt : « Yêu đến muôn đời », bản gốc là của ai ?

    Tựa đề bản nhạc là bằng tiếng Nhật, nhưng giai điệu bài hát được viết trong tiếng Anh. Ca sĩ trình bày nguyên tác Sam Kapu Jr lại đến từ đảo Hawaii. Cho nên vào thời điểm phát hành nhạc phẩm « Choto Mate Kudasai » đầu thập niên 1970, đã từng có sự nhầm lẫn về nguồn gốc bản nhạc. Giai điệu này đến từ xứ nào ? Bài hát gốc do ai sáng tác ? Trong tiếng Nhật, « Choto Mate Kudasai » (còn được nhiều nguồn ghi chép là Chotto Matte Kudasai) có nghĩa là làm ơn chờ giây lát. Bài hát này do nam ca sĩ Sam Kapu Jr trình bày lần đầu tiên vào năm 1971. Sinh trưởng tại đảo Hawaii, Sam Kapu Jr xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ, thừa hưởng năng khiếu âm nhạc từ thân phụ vốn có chất giọng baritone nồng ấm, mượt trầm, chuyên biểu diễn trên đài phát thanh, còn mẹ anh cũng là ca sĩ phòng trà, chuyên đi hát ban đêm tại các quán nhạc (Bina Mossman & Johanna Wilcox Glee Clubs). Nối bước song thân, Sam Kapu Jr vào nghề ca hát thông qua việc ghi âm cho đài phát thanh tại Honolulu. Anh thành danh vào đầu thập niên 1970 trong một nhóm nhạc pop bên cạnh nam ca sĩ người Mỹ gốc Hoa Donald Tai Loy Ho. Do nghệ danh của ông gọi tắt là Don Ho, cho nên thường có sự nhầm lẫn giữa tên ông gốc Hoa với ca sĩ người Việt Nam Don Hồ. Ngoài ca hát, cả hai thành viên Sam Kapu Jr và Donald Ho còn xuất hiện trong phim ảnh, cũng như thành công trên đài truyền hình Mỹ ABC nhờ hai chương trình « Kona Coast » và « The Don Ho Show » (1976-1978). Thời kỳ hoàng kim của Sam Kapu Jr là vào những năm 1970, thời anh lập kỷ lục số bán với nhạc phẩm  « Choto Mate Kudasai » (tựa tiếng Anh là Never Say Goodbye), đồng thời anh đã thành công với nhiều ca khúc khác, trong đó có Love của Nat King Cole, You've got a Friend của Carole King và nhất là phiên bản tiếng Anh Manhã de Carnaval (A Day in the Life of a Fool) nhạc chủ đề của bộ phim Orfeo Negro (Black Orpheus) của tác giả người Brazil Luiz Bonfá. Về mặt sáng tác, « Choto Mate Kudasai » là của hai nữ tác giả Loyal Garner và Jeanne Marie Nakashima. Sinh trưởng tại đảo Hawaii (1946), Loyal Garner là ca sĩ kiêm tác giả thành danh vào những năm 1970 với ban nhạc Local Divas. Bốn thành viên của nhóm này đã phối hợp nhiều luồng ảnh hưởng với nhau, hòa quyện nhạc pop, nhạc jazz và soul, thậm chí một chút country với những điệu hát dân gian của các quần đảo Thái Bình Dương. Trong sự nghiệp của mình, Loyal Garner đã giành được hai giải thưởng âm nhạc của Hawaii Na Hoku Hanohano (tương đương với Grammy) dành cho giọng ca nữ xuất sắc nhất và giải Thành tựu sự nghiệp vào năm 2007. Về phần mình, nhà soạn nhạc Jeanne Marie Nakashima là người Mỹ gốc Nhật. Sinh trưởng tại Hoa Kỳ (1936), cô được đào tạo trong lãnh vực sáng tác dương cầm và độc tấu nhạc cổ điển tại Trường Cao đẳng Âm nhạc Chicago. Mặc dù đi biểu diễn nhạc cổ điển thường xuyên từ khi còn nhỏ, nhưng khi vào nghề Jeanne Marie Nakashima lại chọn sáng tác các ca khúc nhạc pop, những giai điệu gần gũi dễ nghe cho thị trường Nhật Bản và các chương trình giải trí truyền hình trên đảo Hawaii ...   Chính tác giả Jeanne Marie Nakashima đã gợi ý đưa một số từ tiếng Nhật (kudasai, sakura, sayonara ….) vào trong một bản nhạc chủ yếu được viết bằng tiếng Anh. Điều đó tạo thêm nét khác lạ dễ thương cho giai điệu : Choto Mate Kudasai không những ăn khách trên đảo Hawaii mà còn được thính giả người Nhật tại Bắc Mỹ cũng như tại Châu Á ưa chuộng. Thành công của hai tác giả Garner và Nakashima đã ảnh hưởng sau đó đến trào lưu sáng tác ở vùng Thái Bình Dương kể cả những nhạc phẩm như « Million moons over Hawaii » (Muôn ánh trăng trên Hawaii) hay « Honolulu City Lights » (Đêm thành phố thắp sáng) phiên bản ghi âm của nhóm The Carpenters vào năm 1978 là bản phóng tác của nhóm The Beamer Brothers (Keola & Kapono). Do vậy có thể nói, đây là một bài hát tiếng Anh mang ảnh hưởng văn hóa Hawai, nơi có đến một phần năm dân số (22,3%) là người gốc Nhật theo khảo sát gần đây (2020) của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ. Trong tiếng Việt, bài hát « Choto Mate Kudasai » từng được ca sĩ kiêm tác giả Trung Hành đặt thêm lời thành nhạc phẩm « Yêu đến muôn đời » do những nghệ sĩ nổi tiếng như Ngọc Lan, Diễm Liên hay Thanh Vân ghi âm lại, cho dù phiên bản tiếng Việt không giữ lại sắc thái của văn hóa Hawaii, khoác thêm nhiều lớp âm thanh đương đại : « Đừng hỏi vì sao ta khóc, cành hoa buồn vương cội gốc, anh đào tiếc trời xanh biếc, khi đến phút giây từ biệt. Tình yêu đâu ngờ lại hết, yêu thương còn đâu dấu vết, khoảnh khắc tạ từ tha thiết, xin đừng nói câu vĩnh biệt. »

    9 min
  6. 31 MAY

    Sáng tác của Bee Gees : Những phiên bản hoà âm mới

    Không phải ngẫu nhiên mà tạp chí Rolling Stone từng mệnh danh nhóm Bee Gees là cỗ máy sản xuất hàng loạt bài hát ăn khách. Với hơn 250 triệu đĩa nhạc được bán trên thế giới, ban nhạc Bee Gees thành công không kém gì Elvis Presley, The Beatles hay Michael Jackson. Ngoài các bản ghi âm thành công, ba anh em nhà họ Gibb còn soạn nhạc và sản xuất đĩa hát cho nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác, trong đó có nhạc phẩm « Heartbreaker », với phần ghi âm của nam ca sĩ Pháp Christophe Willem. Giai điệu "Heartbreaker" ban đầu được viết cho Dionne Warwick. Bản thân nữ ca sĩ cho biết cô không thích bài này cho lắm, nhưng cô vẫn tin tưởng vào kinh nghiệm sản xuất và tay nghề sáng tác của nhóm Bee Gees. Một sự chọn lựa đúng đắn, vì nhạc phẩm « Heartbreaker » (1982) trở thành bài hát ăn khách nhất của nữ danh ca người Mỹ. Trong tiếng Việt, bài này từng được Lưu Bích ghi âm, lời phóng tác « Chợt nhói con tim » là của tác giả Lan Anh. Nhạc phẩm « Heartbreaker » do cả ba anh em Gibb đồng sáng tác và có giọng hát đệm của Barry Gibb trong phần điệp khúc. Bài hát này từng đạt hạng 10 trên danh sách Hot100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Adult Contemporary của Billboard. Nhóm Bee Gees cũng có ghi âm một phiên bản riêng cho album phòng thu thứ 21 của mình (Still Waters/1997), nhưng mãi đến năm 2001, phiên bản của Bee Gees mới được phát hành trên băng đĩa. Một thập niên trước đó, sau khi lập kỷ lục số bán với nhạc phim « Saturday Night Fever » (Cơn sốt đêm thứ Bảy), nhóm Bee Gees đã được nhiều đồng nghiệp mời hợp tác. Nhóm này đã viết giai điệu « Grease » cho Frankie Valli, giọng ca chính của bộ tứ The Four Seasons, giai điệu « Emotions » cho Samantha Sang (và được Beyoncé ghi âm lại thời cô là thành viên của nhóm Destiny's Child), bản nhạc Islands in the Stream (Hòn đảo giữa dòng nước ấm) ban đầu viết cho ông hoàng nhạc soul Marvin Gaye, nhưng rốt cuộc lại về tay nam danh ca country Kenny Rogers. Và dĩ nhiên tài năng sáng tác của Bee Gees càng được công nhận khi Bee Gees thực hiện nguyên một album cho thần tượng Barbara Streisand, trong đó có nhạc phẩm kinh điển « Woman in Love ». Trong tiếng Việt, bài này có nhiều lời phóng tác : « Khi nàng yêu » (đôi khi được ghi là Đi tìm tình yêu) của tác giả Anh Bằng. Lời thứ nhì là « Người đàn bà khi yêu » của tác giả Lê Kim Lực. Sau khi viết các bản hit cho Dionne Warwick và Barbra Streisand, Diana Ross là người tiếp theo trên danh sách của Barry, Robin và Maurice Gibb. Bài hát « Chain Reaction » 1985 (Phản ứng dây chuyền) lấy cảm hứng từ các nhịp điệu Motown, thời kỳ Diana Ross là giọng ca chính của nhóm The Supremes. Trả lời phỏng vấn của Jon Kutner và Spencer Leigh, đồng tác giả quyển sách « 1000 UK #1 hits » (Một ngàn bản nhac số 1 Vương quốc Anh), Barry Gibb cho biết là Diana Ross đã hưởng ứng bài hát này môt cách nhiệt tình, vì giai điệu tôn vinh thời kỳ hoàng kim của Tamla Motown. Trong số những bài ghi âm mới, có phiên bản rất mộc của nhóm Moon Loungers. Trong số các bản cover gần đây của nhóm Bee Gees, có phần ghi âm đáng chú ý của giọng ca baryton trữ tình (lirico baritone) của nam ca sĩ người Anh Michael Ball. Thành danh kể từ năm 1987 trên sân khấu West End trong hai tác phẩm « Les Misérables » (Những người khốn khổ) và « The Phantom of the Opera » (Bóng ma trong nhà hát), anh đã hai lần đoạt giải thưởng cao qúy của làng nhạc kịch Anh, giải Laurence Olivier dành cho nam diễn viên xuất sắc nhất (2008 & 2013). Trong ba thập niên sự nghiệp ca hát và đóng phim, Michal Ball đã ghi âm hơn 30 album đủ loại. Những năm gần đây mở ra giai đoạn thành công thứ nhì khi Michael Ball hoà quyện tiếng hát của minh với giọng ca tenor Alfie Boe. Từ năm 2016 đến năm 2023, hai danh ca này đã cùng thu thanh 5 album trong loạt đĩa nhạc theo chủ đề « Together » (Bên nhau). Michael Ball diễn đạt khá trội các sáng tác của Bee Gees, chẳng hạn như bản nhạc «Immortality» viết cho Celine Dion, hay là một trong những giai điệu quen thuộc nhất của nhóm này là bài « To Love Somebody », xứng đáng vừa tầm với phiên bản crooner của Michael Bolton. Nhóm Bee Gees đã từng được tôn vinh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll Hall of Fame vào năm 1997, trở thành một trong những nhóm ăn khách nhất mọi thời đại : ba nhạc sĩ kỳ tài soạn giai điệu lọt tai, với thời gian sống mãi.

    9 min
  7. 30 MAY

    Sabrina Carpenter - “Ngắn gọn và ngọt ngào”

    Sabrina Carpenter chiếm sóng hầu hết phương tiện nghe nhìn và giải thưởng âm nhạc lớn trong năm qua. Nữ ca sỹ GenZ được gọi là công chúa nhạc pop mới nổi nhờ 2 bản hit nam châm Espresso và Please please please. Vị ngọt và đắng của bản hit EspressoSabrina Carpenter không phải là cái tên quá xa lạ. Cô gái GenZ (sinh năm 1999) đã gia nhập làng giải trí hơn một thập kỷ khi còn là ngôi sao nhí trên kênh truyền hình Disney. Năm 2024, tên tuổi của Sabrina bừng sáng nhờ bản hit đình đám Espresso trong album mới Short and Sweet (Ngắn gọn và ngọt ngào). Giới phê bình đánh giá ca khúc này giống hương vị tách cà phê: ngắn gọn, hơi đắng. “Gói gọn trong 3 phút, cô gái thả mình giữa cung bậc của ham muốn thể xác, nỗi buồn bất tận và cơn giận dữ hận thù”. Ca khúc Espresso tạo dựng bệ phóng vững chãi cho cả album Short and Sweet. Ngạc nhiên hơn, đây là album phòng thu thứ sáu trong sự nghiệp của Sabrina. Tựa đề album cũng ám chỉ vóc dáng Sabrina, vì chiều cao của cô khá khiêm tốn 1,52 mét. Ngoài ra, bản hit Please please please (Làm ơn) cũng tạo dược dấu ấn riêng của Sabrina thông qua câu chuyện tình với gã trai hư. Cô lo ngại mối quan hệ đổ vỡ do tai tiếng của người bạn trai. Thông qua hai bản hit chủ đạo, Sabrina xây dựng hình ảnh cứng rắn, vui vẻ, ngổ ngáo, gợi cảm và quan trọng nhất là sự ngọt ngào. Đúng như tên gọi, album cô đọng và có độ ngọt như một cô gái trẻ hát về tình yêu. Chỉ vỏn vẹn 36 phút, 12 ca khúc của Sabrina đã làm nên chuyện lớn tại giải Grammy với 6 đề cử (gồm Nghệ sỹ mới xuất sắc nhất). Nữ ca sỹ Gen Z chiến thắng 2 giải Trình diễn pop solo xuất sắc và Album pop xuất sắc nhất. Cô hoàn toàn xứng đáng gặt hái thành quả lao động miệt mài trong nhiều năm qua. Chủ đề tình yêu và trả thù Tại sao Sabrina trở thành hiện tượng nhờ album thứ sáu này ? Nữ ca sỹ thu hút được lượng lớn fan trẻ nhờ phong cách hiện đại và tâm tư của GenZ. Ca từ các bài hát ám chỉ về tình cảm tan vỡ, lừa dối, tình dục, trả thù. Thú vị hơn, Sabrina đều thể hiện với sự ngọt ngào một cách dễ chịu. Giọng ca sinh năm 1999 mang tính giải trí cao, âm gió nhiều, nhẹ nhàng, tình tứ. Các bản hit chủ đạo như Taste, Juno, Espresso được sản xuất theo phong cách dance-pop, country-pop, disco, R&B có giai điệu dễ nghe, mượt mà. Trong ca khúc Juno, cô liên hệ tới bộ phim Hollywood cùng tên (nhân vật chính Juno mang bầu khi còn đang đi học). Ca từ bài hát mô tả cô gái mơ ước có bầu với người yêu khiến cô rung động và quan tâm hết mực để xây dựng mái ấm gia đình. Phải chăng giới trẻ dễ dãi trong tình yêu và kết hôn khi chỉ đề cao rung động thể xác và sự quan tâm ? Một ví dụ khác, Taste(Mùi vị) được dàn dựng công phu thành video clip, lấy cảm hứng từ nhiều phim hài đen tối Hollywood như Death becomes her (Cái chết dành cho nàng) hay The Addams Family (Gia đình Addams). Trên nền nhạc disco và tiết tấu dance rõ nét, nhân vật chính ám chỉ cách trả thù ngọt ngào sự phản bội của người yêu. Nếu anh ta lừa dối cô, mùi vị đầu lưỡi của anh vẫn chỉ là cô mà thôi. Kết thúc album Lies to Girls (Lừa dối các cô gái), album kết thúc đắng cay khi đề cập : You don’t have to lie to girls/if they like you, they’ll just lie to themselves (Anh không cần thiết phải lừa dối các cô gái/ Nếu họ thích anh, họ cũng chỉ lừa dối chính mình). Trong ca khúc Don’t smile (Đừng cười), cô hát với sự buồn bã về tình yêu đã mất (Don’t smile because it happened/Cry because it’s over” (Đừng cười vì chuyện đã xảy ra/Hãy khóc vì câu chuyện đã qua). Giới phê bình đánh giá cao nữ ca sỹ nhờ sự đa diện và đa chiều nhờ sự linh hoạt về thể loại nhạc và cách tiếp cận vấn đề. Tuy nhiên, chủ đề chính album xoay quanh các mối quan hệ chồng chéo và ám chỉ tình dục, do vậy, người nghe dễ bị nhàm chán nếu nghe liền mạch. Tựu chung lại, Sabrina tô vẽ được thế giới rất mong manh, nhiều cám dỗ, yêu đương, mạch cảm xúc đối lập, xen kẽ. Ngôi sao nhạc pop đa diệnSabrina không chỉ đơn thuần là ca sỹ mà còn đảm nhiệm vai trò nhạc sỹ và ý tưởng sản xuất. Ít người biết rằng nữ ca sỹ là đồng tác giả tất cả các ca khúc trong album Short and Sweet. Phong cách sáng tác của cô bắt đầu bằng việc lựa chọn tiêu đề ca khúc, phát triển thân bài và luôn phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân. Sau thành công của Please please please tại giải Grammy, nữ ca sỹ tri ân khán giả bằng việc ra mắt phiên bản đặc biệt song ca với thần tượng nhạc đồng quê, Dolly Parton. Theo giới phê bình, âm nhạc của Sabrina chịu ảnh hưởng của Taylor Swift, Dolly Parton, Kacey Musgraves và Adriana Grande. Trong cuộc phỏng vấn với tạp chí âm nhạc uy tín Rollingstones, ca sỹ GenZ thổ lộ rằng Madonna, Britney Spears, Mariah Carey và Christina Aguilera là những nghệ sỹ ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp và định hướng cô theo đuổi chất liệu pop. Năm 2024, video clip Feather (Lông chim) của Sabrina gây ra tranh cãi kịch liệt với cảnh quay trong nhà thờ Thiên chúa giáo tại New York. Cô mặc váy siêu ngắn và khăn voan đen nhảy múa bên những chiếc quan tài gắn biểu tượng thánh giá. Nữ ca sỹ ám chỉ sự tự do sau khi thoát khỏi những mối quan hệ độc hại. Ngay lập tức, vị linh mục của nhà thờ đã bị tước quyền hành chính vì để cho nữ ca sỹ quay video trong nhà thờ. Số lượng người xem của video nhanh chóng nhảy vọt lên hàng trăm triệu. Sản phẩm âm nhạc cho thấy Sabrina học hỏi Madonna khi khai thác chủ đề tranh cãi như bạo lực, tôn giáo để thu hút đám đông. Giống như các ngôi sao tuổi teen khác, Sabrina dịch chuyển từ ca sỹ/diễn viên nhí sang ngôi sao nhạc pop trưởng thành hơn. Hành trình âm nhạc của nữ ca sỹ hứa hẹn nhiều đột phá ở phía trước. Có thể ngọt ngào hơn nhưng cũng có thể đắng hơn hương vị Espresso của hiện tại. (Theo Variety, Rollingstone, BBC, Wikipedia)

    10 min
  8. 24 MAY

    Nhạc ngoại lời Việt : Tuấn Nghĩa và phiên bản tình ca mới của Elsa

    Lần đầu tiên thoáng nghe qua giai điệu « Ngọc Lan Hương », giới yêu nhạc Pháp nhận thấy ngay bản nhạc này rất quen thuộc. Đây là phiên bản phóng tác lời Việt gần đây của nhạc phẩm « Quelque chose dans mon cœur », từng ăn khách vài thập niên trước qua giọng ca của Elsa Lunghini. Phiên bản lời Việt mới là của tác giả Đinh Công Minh, qua phần trình bày của nam ca sĩ Tuấn Nghĩa. Trong làng nhạc Pháp, Elsa (Lunghini) là một nghệ sĩ đa tài, thành công trong cả hai lãnh vực ca nhạc và điện ảnh. Về thân thế, Elsa xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ. Thân phụ của cô là nhạc sĩ Georges Lunghini chuyên sáng tác với bút danh Romain Ruel, dì của Elsa là diễn viên điện ảnh Marlène Jobert. Cũng như cô em họ là ngôi sao màn bạc quốc tế Eva Green, từ khi còn nhỏ Elsa đã được nuôi dưỡng trong môi trường nghệ thuật dồi dào, phong phú của gia đình. Ngay từ thuở thiếu thời, Elsa đã nuôi giấc mộng làm diễn viên điện ảnh hơn là ngôi sao ca nhạc. Vào năm mới lên 8, cô bé lần đầu tiên xuất hiện trên màn ảnh lớn trong bộ phim « Garde à vue » (Tạm giam) của đạo diễn Claude Miller, bên cạnh nhiều diễn viên trứ danh như Romy Schneider, Michel Serrault hay Lino Ventura. Mãi đến 5 năm sau, sự nghiệp đóng phim của Elsa mới thực sự cất cánh nhờ bộ phim « La Femme de ma vie » (hiểu theo nghĩa Một nửa của đời tôi), tác phẩm đầu tay của đạo diễn Régis Wargnier với Jane Birkin, Christophe Malavoy và Jean-Louis Trintignant trong vai chính, vài năm truớc khi ông Régis Wargnier quay bộ phim « Indochine » (Đông Dương) với Catherine Deneuve. Chính với bộ phim « La femme de ma vie » mà Elsa vào năm 13 tuổi có cơ hội phát huy tài năng ca hát qua việc ghi âm bản nhạc đầu tay. Nhạc phẩm chủ đề của bộ phim có tên là « T’en va pas » (Xin bố đừng đi) giành lấy ngôi vị quán quân trên thị trường Pháp trong vòng 8 tuần lễ liên tục, đạt hạng 7 trên thị trường châu Âu, lập kỷ lục số bán với gần hai triệu bản. Sự thành công của Elsa thực sự là một điều bất ngờ, ngoài mong đợi. Trên đà thành công ấy, thân phụ của Elsa, ông Georges Lunghini mới quyết định hợp tác với nhà soạn nhạc Vincent-Marie Bouvot (từng viết nhạc phẩm '« Ève lève-toi' » cho Julie Pietri) thực hiện nguyên một album cho cô con gái. Tác giả Georges Lunghini đồng sáng tác 10 trên tổng số 11 ca khúc cho album này. Mang tựa đề đơn giản ngắn gọn là « Elsa », album đầu tay bao gồm nhiều ca khúc ăn khách, giúp cho Elsa trở thành thần tượng nhạc trẻ những năm 1980, cùng thời với Vanessa Paradis. Trên album này, có hai bản song ca « Jamais nous » (Đừng lừa dối nhau) với Laurent Voulzy và nhất là « Un roman d'amitié » (Câu chuyện đôi bạn) với Glenn Medeiros.  Còn ai biết rõ tâm tư khát vọng của Elsa (một cô bé ở tuổi đang trưởng thành) hơn là thân phụ của cô? Ngoài niềm đam mê điện ảnh thể hiện qua hai nhạc phẩm « Le rôle de sa vie » (Vai diễn để đời) hay « Nostalgie-Cinéma » (Thước phim hoài niệm), Georges Lunghini còn thành công khi đồng sáng tác với Pierre Grosz nhạc phẩm « Quelque chose dans mon cœur ». Nội dung bản nhạc tinh tế nhạy cảm được viết như một kịch bản phim, cả hai tác giả mượn « thủ pháp điện ảnh » để đặt góc nhìn từ phía nhân vật trong bài hát, khi nói lên nỗi bâng khuâng của lứa tuổi dậy thì, vừa muốn khám phá thế giới của người lớn nhưng đồng thời không đành lòng từ giã thiên đường tuổi thơ, với bao niềm khao khát ước mơ trở thành một « Ava Gardner » mà vẫn không quên mất mình là ai. Album đầu tay giúp cho Elsa thành công trong làng nhạc, bên cạnh những vai diễn điện ảnh và sau đó là trong phim truyền hình. Trong vòng hai thập niên liền từ năm 1988 đến năm 2008, Elsa đã cho ra mắt 8 album, giai đoạn huy hoàng nhất là trong 10 năm đầu. Hiện giờ Elsa chủ yếu đi hát trên sân khấu với đoàn nghệ sĩ Les Enfoirés gây quỹ cho Các quán ăn tình thương (Les Restos du Coeur). Elsa dành nhiều thời gian cho việc đóng phim truyền hình nhiều tập, chẳng hạn như hai loạt phim « Cherif » hay là « Ici tout commence ». Trong số các bản nhạc ăn khách, có khác nhiều tình khúc của Elsa đã được đặt thêm lời Việt : « Jour de Neige » trở thành Ngày tuyết lạnh (lời của Ngọc Lan), « Être ensemble » có tựa đề tiếng Việt là Vĩnh biệt tình anh / Tình có đôi ta (Vũ Xuân Hùng), « Bats toi » Xa người (Khúc Lan), « À la même heure dans deux ans » Ngày này năm sau (Hạ Vy) hay « Pleure doucement » Xin đừng khóc (Nhật Ngân). Riêng nhạc phẩm « Quelque chose dans mon cœur » có khá nhiều lời phóng tác, Hai lời đầu tiên có phần mở đầu hơi giống nhau nhưng lại khác ở phần điệp khúc. Lời thứ nhất « Giọt sầu trong tim » không ghi rõ tác giả do Ngọc Lan ghi âm. Phiên bản thứ nhì của tác giả Vũ Xuân Hùng có tựa đề là « Chút vương vấn trong tim » do nữ ca sĩ Kiều Nga trình bày. Phiên bản thứ ba « Mãi còn yêu » lời Việt của tác giả Thái Thịnh do ca sĩ Quang Vinh ghi âm. Phiên bản thứ tư « Hãy nói lời chia tay » lời Việt của Chu Minh Ký do nam danh ca Thái Châu trình bày. Phiên bản thứ năm và cũng là bản phóng tác gần đây nhất có tựa đề là « Ngọc Lan Hương » theo tài đặt lời của tác giả Đinh Công Minh do nam ca sĩ Tuấn Nghĩa ghi âm, có những lời hoàn toàn khác với các bản trước, một cách để tưởng nhớ nữ danh ca Ngọc Lan quá cố : « Ngọc Lan hương đã xa thật rồi / Để lại trong ta tiếc thương khôn nguôi / Ôi tiếng hát ngất ngây mê đắm / Mà giờ xa vắng nàng về nơi đâu.... Đâu ngày tháng xưa bên đời/ Từng đêm giọng hát em chơi vơi / Lời tình em đó ru ta thiết tha / Và cho bao người đắm say.... Vẫn còn đó những kỷ niệm / Ơi hình dáng thân thương / Bồng bềnh mái tóc em buông lơi / Làm sao quên được hỡi em, hương Ngọc Lan … » Lời của tác giả Đinh Công Minh thoát hẳn so với bản gốc tiếng Pháp, không còn giữ lại ý tứ của tuổi thơ ban đầu trong nguyên tác. Dù vậy, bản phóng tác vẫn hay, vẫn nồng nàn qua lối trình bày của Tuấn Nghĩa nhẹ như gió thoảng, thỏ thẻ những lời buồn thầm kín, cho bâng khuâng hương vấn cõi tình.

    9 min

Ratings & Reviews

4.3
out of 5
19 Ratings

About

Góc vườn âm nhạc của RFI

More From RFI Tiếng Việt

You Might Also Like

To listen to explicit episodes, sign in.

Stay up to date with this show

Sign in or sign up to follow shows, save episodes and get the latest updates.

Select a country or region

Africa, Middle East, and India

Asia Pacific

Europe

Latin America and the Caribbean

The United States and Canada