Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam

  1. -1 J

    Việt Nam : Người lao động bị giảm thu nhập, làm việc thêm giờ do ô nhiễm, nhiệt độ cực đoan

    Ô nhiễm không khí và nắng nóng kéo dài không chỉ tác động đến sức khỏe và tỉ lệ tử vong, mà còn ảnh hưởng đến việc làm tại Việt Nam. Một bộ phận người lao động phải làm việc thêm 1 tiếng 45 phút và bị giảm thu nhập 129.000 đồng/tháng trong những giai đoạn như vậy. Đây là một trong những nhận định được nêu trong nghiên cứu “Nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm ảnh hưởng đến hiệu suất lao động ở Việt Nam như thế nào?” Nghiên cứu được ông Nguyễn Việt Cường, viện phó Viện Nghiên cứu Phát triển Mêkông và kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD thực hiện trong khuôn khổ Dự án GEMMES Việt Nam và được đăng trong số 79 AFD Research Paper (Tài liệu Nghiên cứu của AFD), tháng 07/2025. Kinh tế gia Cecilia Poggi, điều phối các chương trình nghiên cứu liên quan đến bảo trợ xã hội, thế giới lao động và hòa nhập xã hội tại AFD, đã dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Vào cuối tháng 7 trong Tài liệu Nghiên cứu của AFD, ông Nguyễn Việt Cường và bà đã xuất bản một nghiên cứu về "Tác động của nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm không khí đối với nguồn cung lao động và thu nhập: dữ liệu từ Việt Nam". Tình hình ở Việt Nam đáng báo động đến mức nào để một nghiên cứu như vậy được thực hiện ? Cecilia Poggi : Tình hình hiện nay vẫn chưa hoàn toàn đáng báo động. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng với việc các đợt nắng nóng cực đoan ngày càng trầm trọng, chẳng hạn như đợt nắng nóng 44°C được ghi nhận vào tháng 04/2024 ở miền Bắc Việt Nam, cùng với các đợt ô nhiễm ngày càng gia tăng, những câu hỏi như thế này cần được đặt ra. Các dữ liệu cũng cho thấy rõ điều đó. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, gây thiệt hại khoảng 3,2% GDP vào năm 2020. Và mặc dù đã có các chính sách chủ động nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, Việt Nam vẫn luôn có mức độ bụi mịn PM2.5 cao, tương đương với Trung Quốc và cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu trong hơn 20 năm qua. Đọc thêmViệt Nam: Cá chết hàng loạt do nắng nóng khủng khiếp Những mối đe dọa môi trường này không phải là những rủi ro trừu tượng. Chúng gây ra hậu quả trực tiếp đến sức khỏe, khả năng làm việc và khả năng kiếm sống của người dân. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu tác động của nắng nóng cực đoan và ô nhiễm không khí đến công việc của người dân tại Việt Nam. Cụ thể, chúng tôi muốn tìm hiểu xem những hiện tượng đó đã khiến một số người ngừng làm việc hoặc ít tích cực tìm việc như thế nào, cũng như ảnh hưởng ra sao đến hiệu suất làm việc của họ, bằng cách phân tích dữ liệu từ tất cả khu vực tại Việt Nam từ 2015-2022. RFI : Nghiên cứu nêu rằng không thấy những tác động đáng kể của nhiệt độ cực đoan hoặc ô nhiễm không khí đến sự tham gia của lực lượng lao động nhưng các tác giả đã quan sát thấy nhiều tác động nhỏ nhưng đáng kể đến thời gian làm việc và thu nhập. Có thể giải thích hiện tượng này như thế nào ? Cecilia Poggi : Nhìn chung, mọi người không nghỉ việc vì những thay đổi bất thường về thời tiết hoặc ô nhiễm. Do đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn ổn định. Tuy nhiên, thực tế lại tế nhị hơn. Nắng nóng gay gắt hoặc một ngày ô nhiễm cao khiến khó có thể duy trì số giờ làm việc hoặc năng suất tương tự như bình thường. Điều này có thể được giải thích bởi những tác động đến sức khỏe, như mệt mỏi hoặc các vấn đề về hô hấp, hoặc chủ ý giảm tốc độ làm việc vì lý do an toàn. Và chúng tôi chứng minh rằng việc làm vẫn còn, nhưng khả năng làm việc với năng suất tương đương có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong giai đoạn ô nhiễm nghiêm trọng hơn mức bình thường. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Ví dụ, chúng tôi nhận thấy rằng một ngày nắng nóng mỗi tháng làm giảm khoảng 0,5% giờ làm việc hàng tuần và 0,7% thu nhập hàng tháng. Và tác động này thậm chí còn rõ rệt hơn khi liên quan đến ô nhiễm : Tăng thêm một microgam trên một mét khối hạt mịn PM2.5 dẫn đến giảm 1% số giờ làm việc, tương ứng với việc bị mất 1 tiếng 45 phút mỗi tháng. Ô nhiễm cũng tác động đến thu nhập hàng tháng, theo đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,7%, khoảng 129.000 đồng/tháng, tương đương từ 3 đến 4% mức lương tối thiểu thấp nhất theo chuẩn 2023. Xin lưu ý rằng hiện tại chúng tôi đang tiến hành bản phân tích thứ 10 để hiểu rõ hơn về tác động của ô nhiễm, cũng như nhiệt độ khắc nghiệt đối với sức khỏe. Bài báo nghiên cứu thứ hai sẽ phân tích tác động đến chi phí y tế và tỷ lệ tử vong. RFI : Trong nghiên cứu, bà và cộng sự cũng đề cập đến sự bất bình đẳng về tác động của ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan đối với người lao động. Tại sao lại có sự bất bình đẳng này ? Cecilia Poggi : Không phải tất cả người lao động đều bị tác động như nhau, và nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng không phải tất cả đều có thể thích nghi như nhau. Cho nên xuất hiện sự bất bình đẳng trước những hiện tượng này. Nghiên cứu cho thấy rằng người lao động thường xuyên phải làm việc theo giờ cố định không thể dễ dàng bù đắp số giờ bị mất, cho nên họ cảm nhận được tác động của ô nhiễm nhiều hơn so với những người lao động tự do vì những người này có thể phân bổ khối lượng công việc của họ trong nhiều ngày. Một điều đáng quan tâm là những người lao động ngoài trời, mặc dù tiếp xúc nhiều hơn với hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng thực sự lại ít bị ảnh hưởng hơn khi họ tự kinh doanh, làm việc độc lập bởi vì họ có thể sắp xếp lại công việc của mình. Ví dụ trường hợp của những nông dân tự do ở nông thôn hoặc những người bán hàng rong ở thành phố. Ngược lại, khi nhân viên phải làm việc ở ngoài trời, ví dụ trong ngành xây dựng, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những tác động tiêu cực rõ rệt hơn nhiều. Đọc thêmCơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu RFI : Liệu có một vùng hoặc nhiều vùng ở Việt Nam bị tác động nặng hơn cả từ những hiện tượng ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan này ? Cecilia Poggi : Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi muốn nhắc lại rằng các vùng miền ở Việt Nam chịu mức độ ô nhiễm khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Một nghiên cứu bổ sung mà đồng tác giả là phó giáo sư Nguyễn Thị Nhật Thanh thuộc trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy có sự biến động mạnh mẽ theo vùng về cách tình trạng ô nhiễm biển đổi tùy thuộc vào thời tiết hoặc hiện tượng khí tượng. Do đó câu trả lời không đơn giản như vậy, bởi vì, ví dụ, ở miền Bắc Việt Nam, những thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng đến ô nhiễm không khí về lâu dài, trong khi lượng mưa và tốc độ gió lại có tác động ngay lập tức trong việc thay đổi nó. Tuy nhiên, những tác động này không giống ở miền Nam Việt Nam, nơi tất cả các tác động có xu hướng xảy ra ngay lập tức. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng ở cấp độ quốc gia, các tác động xấu của các hiện tượng nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm đối với thời gian làm việc thể hiện rõ rệt ở khu vực thành thị hơn là khu vực nông thôn. Tiếp theo, nếu gộp các khu vực thành vùng lớn như miền Nam, miền Trung hoặc miền Bắc, chúng ta cũng thấy rằng trong cả hai trường hợp, tác động của những ngày nắng nóng hoặc các đợt ô nhiễm ở miền Nam rõ rệt hơn so với miền Bắc hoặc miền Trung. Và với những tác động này, chúng tôi khuyến nghị rằng các biện pháp đối phó, phòng ngừa nên được thực hiện tùy theo các khu vực và phải được thử nghiệm bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt là về mặt bảo vệ việc làm trước những thách thức ô nhiễm. Đọc thêm“Xanh hóa” giao thông Hà Nội: Cần bỏ ôtô cá nhân thể hiện “thành đạt” và kết nối hệ thống công cộng RFI : Vậy, trước những hiện tượng này, các

    11 min
  2. 22 SEPT.

    Biển Đông: Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc về hoạt động xây dựng đảo

    Theo một báo cáo của tổ chức Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải Châu Á AMTI, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS ( Mỹ), được công bố ngày 22/08/2025, Việt Nam đã mở rộng đáng kể hoạt động xây dựng đảo tại các khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Theo báo cáo, những hoạt động này của Việt Nam “sẽ nhanh chóng ngang bằng, thậm chí có thể vượt qua” quy mô hoạt động tương tự của Trung Quốc tại khu vực đó. Các ảnh vệ tinh gần đây cho thấy, kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây dựng đảo trên 8 thực thể, cụ thể là đã tiến hành nạo vét và san lấp tại Bãi Tốc Tan ( Alison Reef ), Đá Cô Lin ( Collins Reef ), Đá Đông ( East Reef ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef ) và Đá Núi Thị ( Petley Reef ). Như vậy là toàn bộ 21 bãi đá và bãi cạn lúc triều thấp mà Việt Nam chiếm hữu trong quần đảo Trường Sa hiện đã được mở rộng để bao gồm cả đất nhân tạo, trong khi bốn năm trước phần lớn chỉ là các công trình bê tông cốt thép biệt lập.  Báo cáo cho biết hoạt động mở rộng mới cũng đã bắt đầu tại những đảo nhân tạo cỡ trung đã được xây dựng trong các đợt nạo vét trước đó: Đảo An Bang ( Amboyna Cay), Đảo Sinh Tồn Đông ( Grierson Reef ) và Đá Tây ( West Reef ). Theo báo cáo, "tính đến tháng 3 năm 2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đất nhân tạo ở quần đảo Trường Sa so với Trung Quốc". Việc cải tạo tại tám thực thể mới này gần như đảm bảo rằng Việt Nam "sẽ ngang bằng - và có thể vượt qua - quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh."  Theo báo cáo của AMTI, các hình ảnh cho thấy cơ sở hạ tầng, bao gồm các container chứa đạn dược, đang bắt đầu xuất hiện trên các rạn san hô mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, những nơi mà công việc nạo vét sắp hoàn tất, chẳng hạn như Bãi Thuyền Chài ( Barque Canada ), Đá Lớn ( Discovery Great Reef ), Đá Lát ( Ladd Reef ), Đảo Nam Yết ( Namyit Reef ), Đảo Phan Vinh ( Pearson Reef ), Đảo Sơn Ca ( Sand Cay ) và Đá Tiên Nữ ( Tennent Reef ).  Việt Nam chưa đưa ra bình luận công khai nào về hoạt động cải tạo mới nhất của mình, một sự im lặng phù hợp với cách tiếp cận kín đáo của Hà Nội ở Biển Đông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/08/2025, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhận định: “Về chuyện này có vẻ chắc chắn là Việt Nam không bao giờ lên tiếng. Năm trước, Việt Nam đã bồi lấp và mở rộng, năm nay họ cũng đang làm như vậy thì tôi nghĩ cũng là hợp lý, bình thường thôi. Hiện nay, tất cả các công trình đó, theo AMTI, đã bằng 70% so với Trung Quốc. Có lẽ Việt Nam sẽ là một đối thủ quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này đối với Việt Nam có thể là vừa có lợi và có hại. Cái lợi là Việt Nam có thể chống đỡ được khá nhiều với Trung Quốc, có thể mở rộng và cạnh tranh với Trung Quốc. Nhưng mặt khác, có thể Trung Quốc sẽ có phản ứng, thì Việt Nam cũng phải hứng chịu. Trên khu vực Biển Đông thì chúng ta biết quan điểm Trung Quốc từ xưa đến nay: Bao giờ họ cũng khẳng định toàn bộ Biển Đông đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc cũng không dựa trên cái gì cả, mà chỉ dựa trên cái gọi là đường chín đoạn, chiếm khoảng chừng 80% Biển Đông. Và gần đây thì họ còn mở rộng hơn rất nhiều. Theo thông tin của Mỹ, họ đã mở rộng đến khoảng 90% Biển Đông.  Việt Nam cùng với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á cũng đã đòi những vùng biển thuộc về họ, nhưng có lẽ chỉ có Việt Nam là tập trung sức lực và đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc trên Biển Đông.  Trung Quốc nói là không ai có quyền mở rộng Biển Đông ngoài họ, nhưng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào hết, bởi vì từ những năm 1935, Trung Quốc còn chưa nghĩ tới chuyện đi buôn xa hơn và một số bản đồ của nhà Thanh cũng cho thấy Trung Quốc chỉ ở trong vùng phụ cận thôi chứ không có đi ra xa. Có lẽ sau này Trung Quốc cảm thấy những đảo này cần thiết, cho nên họ tìm mọi cách để đưa vào trong bản đồ, trong sách lịch sử cho trẻ con học, khiến cho người dân Trung Quốc cảm thấy Biển Đông là của họ, mặc dù họ không có bằng chứng nào cả và thậm chí bằng chứng của họ đã bị tòa án quốc tế năm 2016 ra phán quyết bác bỏ trong vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2013.  Tuy nhiên chúng ta thấy rằng là Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ đường lưỡi bò. Gần đây, bản đồ của họ còn vẽ thêm thành 10 đoạn chứ không phải 9 đoạn, với một đoạn ở khu vực Đài Loan nữa. Họ vẫn cho thấy luật pháp quốc tế không là cái gì cả.” Báo cáo mới của AMTI được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông. Gần đây nhất, vào tháng 7, ở phía bắc quần đảo Trường Sa gần Bãi cạn Scarborough, một tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc khi các tàu này đang quấy rối một tàu của lực lượng tuần duyên Philippines trong vùng biển tranh chấp.  Các nhà phân tích được kênh truyền hình Mỹ CNN trích dẫn ngày 29/08 cho rằng các xung đột giữa Trung Quốc và Philippines có thể đã tạo cho Việt Nam "một vỏ bọc tuyệt vời" cho hoạt động xây dựng trên các đảo mà họ kiểm soát. Collin Koh, nghiên cứu viên tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, ghi nhận:  “Hiện tại, phần lớn sự chú ý của Trung Quốc đang hướng về Philippines, và họ muốn duy trì một mặt trận ổn định với các đối thủ Đông Nam Á khác ở Biển Đông”. Ray Powell, giám đốc của SeaLight, một dự án minh bạch hàng hải tại Trung tâm Đổi mới An ninh Quốc gia Gordian Knot, thuộc Đại học Stanford, đồng tình với nhận xét của Collin Koh:  “Dường như Bắc Kinh đã tính toán rằng nên giữ Philippines cô lập khỏi các bên có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông hơn là ngăn cản Việt Nam đạt được những bước tiến đáng kể về lãnh thổ”.  Thật ra thì Trung Quốc đã có lên tiếng phản đối Việt Nam về những hoạt động xây dựng đảo theo như báo cáo của AMTI. Ngày 25/08, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Ông Quách Gia Khôn tuyên bố: "Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc và Trung Quốc kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của các quốc gia liên quan trên các đảo và rạn san hô bị chiếm đóng trái phép, đồng thời sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền hàng hải của mình."  Như vậy là sau báo cáo của AMTI, Biển Đông có thể sẽ khiến quan hệ Việt - Trung căng thẳng trở lại, trong lúc bang giao giữa hai nước đang trong giai đoạn nồng ấm. Tuy vậy, các nhà phân tích như Collin Koh, nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho rằng chỉ riêng quy mô của những đảo nhân tạo này sẽ không làm thay đổi cán cân chiến lược của khu vực. Theo các nhà quan sát, Hà Nội có thể sẽ coi các hoạt động nói trên là mang tính phòng thủ, củng cố các thực thể mà họ đã chiếm hữu để đáp trả nhiều năm mà Trung Quốc quân sự hóa các đảo mà Bắc Kinh đang kiểm soát. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có nhận định tương tự:   “Chúng ta biết Việt Nam là một quốc gia kiên trì đấu tranh ở Biển Đông từ rất lâu. Nhiều năm trước, những năm 1980, Việt Nam cũng đã chịu nhiều áp bức từ phía Trung Quốc. Thế nhưng Việt Nam vẫn cố gắng và vẫn nghĩ có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình trên các đảo này. Cho nên Việt Nam hết sức bảo vệ. Hiện nay, quần đảo Hoàng Sa thì Việt Nam không thể giữ được nữa, nhưng ở quần đảo Trường Sa thì Việt Nam đã giữ khá nhiều cơ sở ở đó. Theo những con số mà của AMTI đưa ra,  phía Việt Nam cũng đã mở rộng rất nhiều và thứ nhất là sẽ khiến cho ngư dân Việt Nam an tâm hơn. Khi đánh bắt xa bờ, nếu có chuyện gì thì họ có thể quay về trở về để tránh bão. Thứ hai, Việt Nam cũng nghĩ rằng những công trình xây dựng trên biển hay bị hư hại, không giống như trên đất liền, cho nên Việt Nam cũng phải sửa chữa. Và thứ ba là Việt Nam cũng muốn thể hiện cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam mạnh mẽ

    10 min
  3. 15 SEPT.

    Vũ khí: Hàn Quốc giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào Nga

    Từ đối tác kinh tế tin cậy, Việt Nam và Hàn Quốc tiến một bước lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng. Hợp đồng cung cấp 20 pháo K9 Thunder của tập đoàn Hanwha Aerospace, trị giá 250 triệu đô la Mỹ mở ra hướng đi mới cho xuất khẩu vũ khí cho Hà Nội. Việt Nam là khách hàng thứ 11 trên thế giới của loại pháo K9 nhưng đây là lần đầu tiên Hàn Quốc xuất khẩu vũ khí sang một nước Cộng Sản. Đây cũng là lần đầu tiên, Hà Nội mua vũ khí của Seoul trong bối cảnh muốn đa dạng nguồn cung để giảm bớt phụ thuộc vào Nga. Thỏa thuận này được đúc kết sau chuyến thăm cấp Nhà nước từ ngày 10-13/08/2025 của tổng bí thư Tô Lâm tới Seoul. Theo trang Korea Herald, việc giao hàng sẽ được quản lý thông qua Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Hàn Quốc và dự kiến ​​hoàn thành vào cuối năm 2025. Để hiểu thêm về ý nghĩa của hợp đồng vũ khí đầu tiên này và mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc, RFI Tiếng Việt phỏng vấn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc. RFI : Việt Nam mua 20 pháo tự hành K9 Thunder do tập đoàn Hàn Quốc Hanwha Aerospace sản xuất, trị giá 250 triệu đô la. Hợp đồng sẽ được bàn giao vào cuối năm nay. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mua vũ khí của Hàn Quốc, trong khi Nga vẫn là nhà cung cấp chính. Về phía Seoul, đây cũng là lần đầu tiên xuất khẩu vũ khí cho một quốc gia Cộng Sản, theo như nhận định của một chuyên gia Hàn Quốc. Xin anh cho biết đối với cả hai nước, hợp đồng “lần đầu tiên” có ý nghĩa như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Hợp đồng này có nhiều hàm ý. Thứ nhất, lần đầu tiên nó mở ra một thị trường nhập khẩu vũ khí mới cho Việt Nam. Trước đây, tầm 70 tới 80% số lượng vũ khí của Việt Nam là nhập từ Nga và một phần nhỏ khác là nhập từ một số nước Đông Âu, Israel. Bây giờ Hàn Quốc trở thành một thị trường nhập khẩu vũ khí cực kỳ tiềm năng cho Việt Nam. Hàm ý thứ hai, sau cuộc chiến Nga Ukraina, Việt Nam đã cố gắng đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Và thành công bước đầu là có thêm được một đối tác nhập khẩu vũ khí mà có thể nói là tương đối bền vững. Vì Hàn Quốc suy cho cùng cũng là một trong những nước đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam - Hàn Quốc mặc dù mới thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1993 nhưng quan hệ toàn diện từ chính trị, kinh tế, xã hội đặc biệt là quan hệ giữa người dân với nhau, từ đó tới nay phát triển rất tốt và dự báo là cũng sẽ phát triển tiếp. Đọc thêmCông nghiệp quốc phòng Hàn Quốc giúp Việt Nam tự chủ an ninh, đa dạng hợp tác Và có thể trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ tìm kiếm thêm một số đối tác khác, không phải là các đối tác truyền thống trước đây như Ấn Độ hay Iran nữa mà là những đối tác mới, bây giờ là Hàn Quốc, sau này có thể là Thổ Nhĩ Kỳ. Đây chỉ là một bước đầu trong nỗ lực đa dạng hóa của nguồn cung vũ khí. Và thứ ba, nó thể hiện sự đa phương hóa và đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế - chiến lược ngoại giao của Việt Nam vốn đã bắt đầu từ năm 2003 cho tới bây giờ - và nó mang lại một số kết quả khích lệ trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, hết sức khó lường và ưu tiên chính sách ở thời điểm hiện tại vẫn phải là chuẩn bị cho năng lực quốc phòng đạt được hiệu quả răn đe nhất định. RFI : Trong cẩm nang thị trường quốc phòng về Việt Nam công bố tháng 12/2024, Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc (DAPA) đã liệt kê các mặt hàng xuất khẩu đầy hứa hẹn sang Việt Nam vào năm 2033 (pháo tự hành K9, hệ thống tên lửa địa đối không tầm trung Cheongung-II, hệ thống ngắm pháo cho xe bọc thép và xe tăng, hệ thống nhận dạng laser…). Căn cứ vào những con số này, có thể thấy là hợp tác quốc phòng song phương đầy tiềm năng. Những yếu tố nào có thể giải thích cho việc hai nước tăng cường phát triển hợp tác quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Yếu tố để giải thích thì một phần tôi đã trình bày ở trên : Đó là nhu cầu mua sắm quốc phòng của Việt Nam hiện tại là rất lớn trong bối cảnh những thách thức an ninh khu vực nổi lên, không chỉ là vấn đề Biển Đông với Trung Quốc mà còn là vấn đề an ninh phi truyền thống ở phía Tây nữa, đặc biệt là vấn đề sông Mêkông, phòng chống tội phạm buôn người xuyên quốc gia. Những yếu tố an ninh như vậy yêu cầu là quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam phải được đẩy mạnh và mang tính hiệu quả. Nhu cầu quốc phòng lớn nhưng mà bạn hàng truyền thống - đó là Nga - hiện tại đang gặp cực kỳ nhiều rắc rối. Trong bối cảnh đó và dưới áp lực phải hiện đại hóa một cách hiệu quả, việc đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, tìm tới những đối tác vừa truyền thống, vừa an toàn, vừa bền vững, là một hướng đi tất yếu thì Hàn Quốc nằm trong sự lựa chọn đó. Đọc thêmHàn Quốc : Phát triển công nghiệp quốc phòng để tự vệ ? Điểm thứ hai, tại sao là Hàn Quốc mà không phải là một số quốc gia khác ? Thứ nhất, Hàn Quốc có nền công nghiệp quốc phòng mạnh, hiện nay là quốc gia xuất khẩu vũ khí đứng hàng thứ tư thế giới. Các loại công nghệ quốc phòng của họ được đánh giá tiên tiến hàng đầu thế giới, đặc biệt tại những mảng công nghệ và những mảng vũ khí mà Việt Nam đang cần, ví dụ pháo binh, các loại công nghệ vũ khí phòng không. Đặc biệt là ngành công nghiệp đóng tàu chiến Hàn Quốc. Ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc nói chung là gần như số 2, số 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc với Nhật Bản và nhiều khi Hàn Quốc còn cân bằng với Nhật Bản. Đối với Việt Nam, nhu cầu đóng tàu cũng như là nhu cầu về những mặt hàng vũ khí phòng không, không quân ở thời điểm hiện tại là rất cần thiết tại vì Nga đang bị cấm vận. Cho nên việc có một bạn hàng mới giỏi về vấn đề đóng tàu và các loại vũ khí không quân là cần thiết. Và Việt Nam có thể tận dụng điều đó trong mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Hàn. Tiếp theo, quan hệ chính trị ngoại giao và quốc phòng giữa Việt Nam với Hàn Quốc khá là sâu rộng và cả hai nước có một niềm tin chiến lược chiến lược nhất định. Nó khác với Mỹ. Ở thời điểm hiện tại, có vẻ Việt Nam không có nhiều lòng tin chiến lược với Mỹ. Cho nên là một số dự án hợp tác quốc phòng tiềm năng giữa Việt Nam và Mỹ đang hơi bị trì hoãn, ví dụ đàm phán mua máy bay vận tải C130 đang bị trì hoãn rất là nhiều bởi vì rất nhiều vấn đề khác nhau. Đọc thêmTriển lãm quốc phòng quốc tế: Việt Nam tìm giải pháp thay thế vũ khí Nga Chưa kể rằng yếu tố ý thức hệ cũng là một trong những điểm khiến cho hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và phương Tây nói chung, cũng như là giữa Việt Nam và Mỹ nói riêng, có một số rào cản lớn. Những điểm đó đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc hầu như rất là nhỏ. Mặc dù là một trong những quốc gia đồng minh của Mỹ nhưng Hàn Quốc nằm trong vùng văn hóa Đông Á. Họ hiểu được cách thức mà chính trị ở các quốc gia Đông Á cũng như Đông Nam Á vận hành. Họ chấp nhận mối quan hệ đó, do vậy niềm tin chiến lược giữa hai bên là có. Bởi vì có niềm tin chiến lược, cho nên những rào cản như Việt Nam đối mặt với Mỹ hay phương Tây nằm ở mức tối thiểu. Do đó nó cho phép Hàn Quốc có thể chuyển giao công nghệ tới Việt Nam, đặc biệt là một số loại công nghệ quân sự nhạy cảm mà không gặp phải nhiều rào cản quá lớn. Trong khi vấn đề dân chủ, nhân quyền hay là những vấn đề liên quan tới rào cản kỹ thuật hoặc là sự cho phép sử dụng vũ khí giữa Việt Nam và Mỹ, lại lớn. Yếu tố niềm tin chiến lược trong chính trị và quân sự chính là một điểm nổi bật khiến cho Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác quốc phòng mới của Việt Nam ở thời điểm mà nhu cầu mua sắm vũ khí của Việt Nam là cấp thiết. RFI : Như anh đã đề cập ở trên về năng lực đóng tàu của Hàn Quốc thì Việt Nam cũng có nhu cầu về tàu tuần tra tốc độ cao và tàu

    11 min
  4. 8 SEPT.

    Từ "Napalm Girl" đến "The Stringer": Tranh cãi về bức ảnh biểu tượng cho chiến tranh Việt Nam

    Những tranh cãi xung quanh bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl” ( Em bé Napalm ) đã bùng lên kể từ khi một bộ phim được chiếu tại Mỹ khẳng định tác giả của bức ảnh này không phải là Nick Ut mà là một người khác. Trong suốt 53 năm qua, bức ảnh “Napalm Girl”, còn được biết dưới cái tên "Terror of war" ,vẫn được xem là biểu tượng cho sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam. Bức ảnh được chụp ngày 08/06/1972 tại Trảng Bàng khi máy bay của không quân Việt Nam Cộng Hòa ném bom napalm nhầm mục tiêu vào một thánh thất Cao Đài nơi mà một nhóm phụ nữ và trẻ em lúc đó đang trú ẩn. Trong ảnh, người ta thấy Kim Phúc, một cô bé 9 tuổi, bị bỏng nặng, thân thể lõa lồ vì quần áo bị cháy hết, cùng với một số trẻ em, từ làng Trảng Bàng vừa chạy vừa la khóc đau đớn, hoảng loạn trên quốc lộ, trước khi bất tỉnh và được đưa vào bệnh viện.   Chính nhờ bức ảnh này mà ông Nick Ut, một phóng viên nhiếp ảnh trẻ làm việc cho hãng tin Mỹ AP ở Sài Gòn lúc ấy, trở nên nổi tiếng thế giới: Ngay ngày hôm sau “Napalm Girl” được đăng trên trang bìa của New York Times, gây chấn động dư luận quốc tế. Tác giả của bức ảnh ngay năm đó được trao Giải Pulitzer về báo chí. Sang năm 1973, tổ chức World Press Photo ( Giải Báo ảnh Thế giới ) đã trao giải “Bức ảnh của năm” cho “Napalm Girl”. Thế nhưng, ngày 16/05/2025,  World Press Photo lại thông báo tạm ngưng ghi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl” là Nick Ut sau khi một bộ phim tài liệu của đạo diễn Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn tựa đề “The Stringer: The Man Who Took The Photo”, được trình chiếu lần đầu tiên tại Liên hoan phim Sundance ngày 25/01/2025. Các tác giả của  bộ phim khẳng định, sau nhiều năm điều tra, thật ra tác giả của bức ảnh ”Napalm Girl” không phải là Nick Ut, mà là ông Nguyễn Thành Nghệ, được giới thiệu là một “nhà báo tự do” (a stringer).  Bộ phim dựa trên cuộc điều tra của nhà báo Mỹ Gary Knight về tuyên bố vào năm 2022 của Carl Robinson, một nhân viên của hãng tin AP ở Sài Gòn năm 1972. Theo Robinson, ông đã được Horst Faas, trưởng bộ phận ảnh của AP tại Sài Gòn vào thời điểm đó, ra lệnh phải ghi Nick Ut là tác giả bức ảnh, vì Nick Ut là phóng viên chính thức của hãng tin. Bộ phim phỏng vấn rất nhiều người, trong đó có một số phóng viên có mặt tại Trảng Bàng ngày 08/06/1972, nhưng lại không hỏi hai nhân vật chính trong câu chuyện này là Nick Ut (hiện sống tại Mỹ) và bà Kim Phúc (hiện sống ở Canada).  Sau một cuộc điều ra riêng của World Press Photo, giám đốc điều hành World Press Photo, Joumana El Zein Khoury, đưa ra một tuyên bố vào tháng 5: "Mức độ nghi ngờ quá lớn để duy trì việc ghi nhận tên tác giả như hiện tại". Tuy nhiên, World Press Photo cũng không ghi lại tên tác giả bức ảnh. Theo trang mạng PetaPixel, ông Bảo Nguyễn, đạo diễn phim "The Stringer" đã hoan nghênh quyết định của Worlfd Press Photo. Đạo diễn phim đã viết vào tháng 5: "Những phát hiện của họ kết luận rằng, dựa trên các bằng chứng hình ảnh và kỹ thuật hiện có, Nguyễn Thành Nghệ, một nhiếp ảnh gia người Việt Nam lâu nay bị lãng quên, dường như có nhiều khả năng là người chụp bức ảnh này hơn Nick Ut. Việc xem xét lại này một phần được thúc đẩy bởi bằng chứng được trình bày trong "The Stringer", một bộ phim tài liệu điều tra do tôi đạo diễn với sự hợp tác chặt chẽ của một nhóm các nhà báo và đoàn làm phim, nhiều người trong số họ là người Việt Nam.Sự công nhận này có ý nghĩa sâu sắc đối với tất cả chúng tôi, những người tham gia. Nhưng trên hết, nó đại diện cho bước đầu tiên quan trọng trong việc ghi nhận người mà chúng tôi tin là đã thật sự chụp bức ảnh đó: Nguyễn Thành Nghệ. Chúng tôi hy vọng thế giới sẽ biết đến và gọi tên ông ấy". Ông Bảo Nguyễn còn khẳng định rằng "The Stringer" không phải là một bộ phim về Nick Ut, mà là một cuộc khám phá sự thật, ký ức và "gánh nặng thầm lặng của một người đàn ông đã mang trong mình một bí mật hơn năm mươi năm". Ngay sau khi được trình chiếu, bộ phim đã gây tranh cãi rất nhiều trong giới phóng viên nhiếp ảnh quốc tế, nhiều người tin vào những khẳng định trong phim “The Stringer”, nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ tính xác thực của bộ phim. Về phần mình, ngay trước khi "The Stringer" được trình chiếu lần đầu tiên, hãng tin AP đã bác bỏ những khẳng định trong bộ phim và đã tiến hành các cuộc điều tra riêng để đi đến kết luận là không có lý do gì để thay đổi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl”. Ngay sau khi World Press Photo đình chỉ quyền tác giả của Nick Ut cho bức ảnh "Em bé Napalm", ba nhân vậy nguyên là chủ tịch và giám khảo của World Press Photo đã viết một bức thư ngỏ bày tỏ sự thất vọng trước quyết định của tổ chức này và yêu cầu World Press Photo khôi phục quyền tác giả của Nick Ut. Tính đến đầu tháng 6, 400 nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp đã ký vào bức thư đó. Mặc dù không nêu rõ ai là người chụp bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl”, bức thư ngỏ cho là "vẫn chưa có đủ bằng chứng không thể chối cãi" để có thể kết luận đó không phải là ảnh do Nick Ut chụp.  Cũng nhằm biểu thị sự ủng hộ đối với Nick Ut trong vụ này, năm nay ban tổ chức Liên hoan Ảnh Báo chí Thế giới "Visa pour l’image" tại thành phố Perpignan của Pháp, mà giám đốc là ông Jean - François Leroy, ngay từ tháng 5 đã mời ông đến dự.  Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2025 tại Perpignan nhân Liên hoan Visa pour l’image, ông Nick Ut cho biết:  “Họ đã mời tôi cách đây mấy tháng rồi. Nhân dịp này tôi vừa tới thì gặp ông Jean - François Leroy hôm qua. Ông rất mừng khi gặp lại tôi và ông nói: “Chúng tôi ủng hộ Nick Ut trong vụ bức hình Em bé Napalm”. Họ rất là phản đối, bởi vì bức ảnh “Em bé Napalm” đã từng được nói rất nhiều tại Pháp, nhất là tờ báo Paris Match đã từng sử dụng bức hình này rất nhiều. Cách đây ba mươi mấy năm, Visa pour l'image cũng đã từng mời tôi tới đây và tôi đã gặp những phóng viên nổi tiếng, họ luôn luôn ủng hộ tôi. Khi bức hình đó được làm thành phim “The Stringer”, họ rất bực tức và phản đối luôn cả World Press rất nhiều. Cách đây hơn một năm tôi đã nghe câu chuyện đó. Sau đó phim thành hình là phim “The Stringer”. Tôi cũng đã coi phim đó rồi. Phim hoàn toàn là không đúng sự thật, bởi vì họ nói ảnh đó là tôi lấy của một người làm cho NBC. Thật ra ông ấy không phải là nhà báo, mà là một tài xế được mướn mấy tiếng đồng hồ một ngày thôi. Báo chí Việt ngữ nói ông ấy là một nhà báo làm cho đài truyền hình là không đúng sự thật, tại vì tất cả những người Việt Nam làm cho báo Mỹ trong thời chiến tranh tôi đều biết hết.  Tôi được người bạn từ bên Úc gọi tôi một cái message ( tin nhắn ) nói rằng ông Nghệ không có làm báo gì hết. Ông ấy đi du học ở tại Mỹ năm 63 vào thời ông Diệm, học một khóa học về truyền hình tại New Jersey, nhưng thật sự là học làm tình báo. Khi trở về Việt Nam, ông là sĩ quan Việt Nam dưới chính quyền Sài Gòn, chuyên đi khai thác tù binh. Vào ngày 08/06/1972 ở  Trảng Bàng, ông ấy đứng nhìn vào máy hình để bắt những tù binh của Cộng sản về điều tra. Người bạn tôi cho biết là trước khi mất nước năm 75, ông Nghệ đã được tòa đại sứ Mỹ đưa đi trước một tháng. Chỉ có những người nhân viên mật vụ của Mỹ mới được đi sớm. Ông này chưa làm nhà báo bao giờ! Ông chỉ là một tài xế lái xe chở những người của đài truyền hình cameraman, soundman đi Trảng Bàng hôm đó. Tôi cũng không ngờ 53 năm bây giờ mới đem câu chuyện này ra. Những người làm trong AP với tôi tại sao năm mươi mấy năm trước không tố cáo, đợi bây giờ mới tố cáo chuyện này? Trong lúc những người làm việc của AP tới nay vẫn còn tố cáo ông Robinson. Họ nói: "Anh em làm việc chung với mà tại sao ông lại nói Nick Ut như vậy?"  Vào dịp kỷ niệm 50 năm ( chấm dứt chiến tranh Việt Nam ), cũng có một cô giám đốc của AP tới dự lễ ở Sài Gòn. Cô đã nói thẳng với ông Carl Robinson: "Nick Ut có làm gì ông đâu mà ông tố cáo ông ấy ăn cắp hình này kia?" Ông không trả lời gì hết. Trong b

    10 min
  5. 1 SEPT.

    Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

    Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập. Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa. RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể … Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này. Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp. Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa. Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng. RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời. Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn. Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa. Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác. RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên. Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế. Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau. Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực. Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện đư

    15 min
  6. 25 AOÛT

    Chuyển toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành: Giới chuyên gia Việt Nam quan ngại

    Có nên chuyển toàn bộ các chuyến bay quốc tế từ Sân bay Tân Sơn Nhất đến Sân bay Long Thành ngay từ năm 2026? Đó là vấn đề đang gây nhiều tranh cãi tại Việt Nam và nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự quan ngại về phương án này.  Công trình xây dựng sân bay quốc tế Long Thành, trên diện tích 5.000 ha, được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một dự kiến hoàn thành cuối năm nay. Theo kế hoạch dự trù, vào ngày 19/12/2025, chuyến bay “kỹ thuật” đầu tiên cất cánh từ Sân bay Nội Bài, Hà Nội, sẽ hạ cánh xuống đường băng Sân bay Long Thành. Kể từ giữa năm tới, trên nguyên tắc sân bay quốc tế mới này sẽ được đưa vào hoạt động, trước mắt là với công suất 25 triệu lượt khách và 1,2 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Sân bay sau khi hoàn tất giai đoạn đầu được được mô tả là “với hạ tầng hiện đại, nhà ga rộng, công nghệ tự động hóa và luồng di chuyển thông thoáng”. Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV) đã đề ra hai phương án: Hoặc là chuyển toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ 2026, hoặc chỉ dời các đường bay quốc tế dài, giữ lại các chặng ngắn ở Tân Sơn Nhất. Theo báo chí Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam và nhiều hãng bay quốc tế cũng “cơ bản nhất trí” với phương án tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành, cho rằng như vậy sẽ “thuận tiện quản lý, tối ưu nguồn lực*. Vị trí của Sân bay Long Thành được cho là “thuận lợi hơn” vì nằm tách biệt với khu dân cư, không phải hạn chế giờ bay và sẽ được kết nối bằng các đường cao tốc, đường vành đai và trong tương lai sẽ có các tuyến metro. Nhưng vấn đề là hiện giờ mạng lưới giao thông đó hầu như chưa có và như vậy việc tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ giữa năm 2026 sẽ đặt ra nhiều vấn đề về di chuyển đối với hành khách, nhất là vào những giờ cao điểm. Nhiều chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về phương án này, trong đó có kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, hiện là Chủ tịch NgoViet Architects & Planners và có trên 30 năm kinh nghiệm quốc tế về tư vấn thiết kế, quy hoạch kiến trúc tại châu Á và Bắc Mỹ. Theo quan điểm của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, Sân bay Long Thành chưa thể tiếp nhận ngay toàn bộ hay phần lớn các chuyến bay quốc tế, mà vai trò của sân bay này nên được nâng dần lên theo từng bước cho đến khi có đầy đủ cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết. Sau đây mời quý vị nghe bài phỏng vấn qua điện thoại với kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn: Xin kính chào kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, xin cám ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn. Trước hết ông có đánh giá như thế nào về vị trí và tiềm năng của Sân bay Long Thành? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Long Thành có một vị trí chiến lược tốt, bởi vì Sân bay Long Thành phục vụ cho cả vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh, chứ không phải chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương quan với những khu vực trọng điểm như là khu trung tâm của các tỉnh thành lân cận thành phố Hồ Chí Minh: Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng như các hạ tầng trọng điểm như Cụm cảng biển Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ, cùng trung tâm đường sắt ở phía Bình Dương, v.v…, tôi nghĩ rằng đây là một vị trí chiến lược tốt. Sân bay cũng nằm cách trung tâm nội thành Thành phố Hồ Chí Minh trong một khoảng cách có thể nói là lý tưởng, khoảng 40km, không quá xa và sân bay có quỹ đất rộng. Thưa ông, có hai phương án đang được đặt ra cho năm 2026: Hoặc là dồn toàn bộ các chuyến bay quốc tế đến Sân bay Long Thành, hoặc là chỉ chuyển những chuyến bay đường dài đến Long Thành và những chuyến bay đường ngắn thì tạm thời vẫn để ở Tân Sơn Nhất. Về các hệ thống giao thông để mà kết nối sân bay Long Thành với Sài Gòn chẳng hạn thì ông thấy hiện nay họ đang tiến hành như thế nào?  KTS Ngô Viết Nam Sơn: Các nhà quản lý mong là sẽ đưa sân bay Long Thành vào hoạt động cuối năm nay hoặc là đầu năm sau. Tuy nhiên, có vẻ như là những dự án kết nối hạ tầng, kết nối vùng không theo kịp với tiến độ này. Hai phương án mà ACV đưa ra: Một là chuyển toàn bộ tuyến quốc tế về Long Thành và hai là chỉ chuyển những tuyến đường dài về Long Thành và giữ lại những tuyến đường ngắn lại cho Tân Sơn Nhất và cả hai sân bay đều có tuyến bay quốc nội. Tôi nghĩ rằng hai phương án này cũng chỉ hướng đến mục tiêu ngắn hạn thôi, bởi vì chúng ta phải nhìn đến với mục tiêu dài hạn là hướng đến đích đến, khi mà hoàn thành đúng như kỳ vọng và đúng như quy hoạch, Long Thành sẽ là một sân bay tầm cỡ quốc tế hàng đầu của siêu đô thị Thành phố Hồ Chí Minh. Mình nói siêu đô thị là bởi vì Thành phố Hồ Chí Minh đã rất là lớn, quy mô đã trên 10 triệu dân và vừa rồi Thành phố Hồ Chí Minh nay sáp nhập với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tăng quy mô đô thị lên gấp ba và dân số lên gấp rưỡi. Như vậy, Sân bay Long Thành phục vụ cho cả một vùng đô thị Nam Bộ rộng lớn phía Nam, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm. Như vậy, nhìn đến kỳ vọng tương lai, khi đó sân bay Long Thành có thể được ví như sân bay Charles de Gaulle của Paris với những tuyến quốc tế đường dài và hạ tầng của nó thì không chỉ có đường bộ, đường cao tốc, mà có cả kết nối metro, kết nối đường sắt cao tốc, giống như TGV của Pháp, đến sân bay Long Thành. Bên cạnh đó là khu vực xung quanh sân bay Long Thành sẽ hình thành như là một đô thị sân bay ( Airport City ). Giữa Sân bay Long Thành và Cụm Cảng Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ còn có khu thương mại tự do quốc tế đang được dự tính xây dựng, một phần là sẽ thuộc Đồng Nai, một phần sẽ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.  Viễn cảnh xa là như vậy, nhưng trước mắt, nếu chúng ta đưa nó vào sử dụng, cho là đầu năm sau đi, thì rõ ràng là hạ tầng kết nối không kịp xây dựng. Đứng về góc độ khoa học, chúng ta có thể thấy rất rõ là việc nóng vội đưa tất cả những tuyến bay quốc tế về đây sẽ không hiệu quả, sẽ làm giảm giá trị của cả Long Thành lẫn Tân Sơn nhất. Tức là cả hai sân bay đều không hoạt động được tốt. Trước mắt, nếu muốn đưa sân bay Long Thành sớm sử dụng đó, tôi vẫn thấy phương án hai có lẽ là khả thi hơn, mặc dù là trong tương lai, Sân bay Long Thành sẽ đóng một vai trò quan trọng hàng đầu tại Việt Nam, lúc đó Tân Sơn Nhất sẽ đóng vai trò thứ yếu. Nhưng sang năm thì tôi nghĩ rằng chúng ta hãy nhìn vào thực tế: vẫn nên để Tân Sơn Nhất quan trọng hơn Long Thành trong ngắn hạn. Bởi vì, với một siêu đô thị như Thành phố Hồ Chí Minh mà hoạt động hiện giờ là khách quốc tế ra vào và khách quốc nội đi và đến sân bay Tân Sơn Nhất, thì không nên vì mong muốn thúc đẩy phát triển Long Thành khi nó chưa có đủ điều kiện mà làm hại đến sự nghiệp chung. Vâng, tức là có nguy cơ nó sẽ gây khó khăn cho các hãng hàng không quốc tế  tức là hành khách của những chuyến bay quốc tế dài tới Long Thành muốn kết nối với Sân bay Tân Sơn nhất để đi các chuyến nội địa thì gặp tình trạng là đường xá của mình không phục vụ kịp. KTS Ngô Viết Nam Sơn: Chắc chắn rồi. Chúng tôi cũng đi nước ngoài thường xuyên. Sân bay quốc tế nào cũng vậy thôi, kết nối quốc nội với quốc tế phải thuận tiện. Hiện giờ người ta đang mong muốn Long Thành trở thành như là một "hub" về hàng không, sẽ là nơi tập trung những chuyến bay đường dài đi Châu Mỹ, đi Châu Âu, đi Châu Úc, vân vân… và sẽ có những chuyến quốc nội và quốc tế đến và gom khách ở đây. Dần dần sẽ có những chuyến bay thẳng của máy bay Boeing và Airbus rất lớn. Nhưng chúng ta phải nhìn nhận là hiện giờ Long Thành chưa phải là hub. Muốn trở thành hub thì cần điều kiện là hạ tầng kết nối phải rất là tốt. Bên cạnh đó, các hãng hàng không của Việt Nam, ít ra là hai hãng Vietnam Airlines và Vietjet, phải vươn lên tầm quốc tế, giống như Singapore Airlines hay là Japan Airlines, lúc đó nó mới trở thành là một thực tế. Như vậy là việc chuyến các chuyến bay quốc tế đến Long Thành là tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của sân bay. Khi nào thì Sân

    10 min
  7. 18 AOÛT

    Việt Nam: Thuế "trung chuyển" của Mỹ gây khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

    Thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 07/08/2025. Thật ra, theo bộ Công Thương, trong thời gian tới, Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đàm phán về thỏa thuận “thương mại đối ứng” và Hà Nội vẫn hy vọng sẽ được hưởng một mức thuế thấp hơn.  Trước mắt, một số các chuyên gia nhận định mức thuế 20% cho hàng hóa Việt Nam là cao hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Cam Bốt, Indonesia, Malaysia, Philippines (19%), nhưng đây vẫn là mức thuế "tương đối phù hợp" trong bối cảnh Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về xuất khẩu vào Hoa Kỳ và có mức thặng dư thương mại lớn thứ tư với Hoa Kỳ. Tuy vậy, theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội, mức thuế 20% vẫn bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam:  “Mức thuế 20% này là vẫn rất bất lợi so với một số nước khác được mức thuế 19% hay là 15%, cho nên nó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các hàng hóa Việt Nam và kết quả là xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã chậm lại và giảm sút khoảng hơn 20%.Theo tôi, những mặt hàng bị tác động bao gồm may mặc, da giày và kể cả một số mặt hàng đồ gỗ. Nếu như tình hình tiếp tục như thế này, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ phải tìm cách đa dạng hóa các thị trường và tìm các biện pháp để có thể tiếp tục duy trì sản xuất và xuất khẩu của mình và tìm cách né tránh thuế 20% này. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng tìm cách mở rộng thị trường ở Trung Đông và tìm kiếm những thị trường ở Châu Phi, đồng thời muốn phát triển những thị trường khác tuy nhỏ nhưng hy vọng là sẽ vẫn có thể đón nhận được hàng hóa của Việt Nam một cách thuận lợi. Tình hình đó đối với sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, nhất là đối với những doanh nghiệp trung bình và nhỏ, đang gây khá nhiều khó khăn. Những doanh nghiệp đó chắc là sẽ phải tìm cách kết nối với các doanh nghiệp lớn hơn, để có thể tiếp tục tồn tại. Có nghĩa là họ có lẽ sẽ phải, nhiều hay ít,  thay đổi sản phẩm của họ và tìm kiếm những đối tác mới.” Riêng về thủy sản, một trong những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ, theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), do mức thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2025 sẽ chỉ là khoảng 9 tỷ đôla, giảm gần 10% so với năm 2024. Nhưng vấn đề lớn hơn, có thể ảnh hưởng đến cả đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đó là mức thuế 40% mà chính quyền Trum áp dụng đối với những hàng hóa “trung chuyển”, chủ yếu là hàng có nguyên liệu, linh kiện từ Trung Quốc nhưng được sản xuất ở Việt Nam để được dán nhãn, nhằm né thuế quan của Mỹ. Chỉ có điều cho tới nay phía Mỹ vẫn chưa đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào là hàng “trung chuyển”. Chuyên gia Lê Đăng Doanh giải thích: “Hiện nay, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ và thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc. Mỹ xem xét những mặt hàng gọi là “trung chuyển” dựa trên tỷ lệ giá trị gia tăng của sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Nếu như Việt Nam cố gắng gia tăng được tỷ lệ đó, để các hàng hóa đó không còn bị xem là hàng hóa trung chuyển, mà là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, thì có thể giảm được mức thuế 40% này. Còn mức thuế 40% này rất bất lợi đối với hàng hóa của Việt Nam bị gọi là trung chuyển. Rất nhiều sản phẩm của các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam nhưng lại nhập khẩu các linh kiện từ các nhà sản xuất cũng của hãng ấy tại Trung Quốc, mà những đầu tư của họ vào Trung Quốc thì có quy mô rất lớn. Vì vậy, ví dụ như trong một điện thoại của hãng Samsung sản xuất tại Việt Nam, tỷ lệ phụ thuộc vào các linh kiện nhập khẩu từ cơ sở của Samsung ở Trung Quốc là không nhỏ. Cho nên vấn đề ở đây là phải hợp tác với các nhà đầu tư, với các nhà xuất khẩu, để nâng cao tỷ lệ sản xuất tại Việt Nam, nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, kể cả các sản phẩm gọi là “made in Việt Nam” nhưng tỷ lệ giá trị gia tăng thì còn tương đối thấp và rất có thể sẽ bị Mỹ xếp vào loại hàng trung chuyển và chịu mức thuế cao. Mức thuế này dĩ nhiên là một tín hiệu rất là quan trọng. Các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như các nhà xuất khẩu của Việt Nam đang phải xem xét các phương án đa dạng hóa những nguồn linh kiện và sản phẩm, để có thể giảm bớt việc chịu thuế trung chuyển 40% này. Biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta phải tiến tới một  trình độ công nghệ cao hơn, một trình độ chất lượng sản phẩm cao hơn và có những nguồn nhân lực chất lượng cao hơn, am hiểu về chuyển đổi số, về thị trường nước ngoài. Với nỗ lực đa dạng như vậy, tôi hy vọng là Việt Nam trong một thời gian nhất định sẽ cố gắng vươn lên để giảm bớt tỷ lệ những mặt hàng bị xếp là trung chuyển.” Trang mạng Luật Khoa tạp chí ngày 12/08 ghi nhận: “Sự mơ hồ của chính sách thuế quan mới từ Mỹ, khi chưa có định nghĩa rõ ràng về dạng hàng hóa “trung chuyển” cũng khiến các doanh nghiệp FDI ( đầu tư nước ngoài ) lo ngại và phải tìm những giải pháp phòng ngừa từ xa. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu lựa chọn phương thức thu hẹp quy mô sản xuất. Một số khác lại dần di chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Việt Nam. Những điều này đã phơi bày những điểm yếu trong cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước những biến động của chính sách thương mại toàn cầu.” Tác giả bài viết giải thích: “Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc hơn 70% giá trị xuất khẩu vào các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI). Chưa kể là ngành sản xuất trong nước phải lệ thuộc phần lớn nguồn nguyên liệu nhập khẩu, mà trong đó khoảng 80% đến từ Trung Quốc. Trong khi đó, tỷ lệ hàng thực sự đạt tiêu chí nội địa hóa, tức là do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ hoàn toàn công nghệ và dây chuyền sản xuất, chỉ dừng lại ở mức 5 – 10% trong giá trị hàng hóa xuất khẩu. Do vậy, nếu hàng hóa trung chuyển được hiểu là những hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn làm chủ quá trình sản xuất, thì hầu như hàng Việt Nam xuất đi các nước, không riêng gì Mỹ, chỉ là hàng trung chuyển. Tính không rõ ràng trong cách định nghĩa hàng hóa “transshipment” của Mỹ đang làm tê liệt quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hay nói khác đi, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp chuỗi giá trị và thu hút các dự án FDI chất lượng cao, sự mơ hồ trong chính sách thương mại của Mỹ có thể trở thành một rào cản không hề nhỏ.” Thế nhưng, thuế “trung chuyển” của chính quyền Trump hiện giờ có vẻ không ảnh gì đến đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, theo ghi nhận của hãng tin Bloomberg. Trong khi Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế khoảng 55%, Việt Nam, chịu mức thuế 20%, vẫn được xem là tương đối an toàn. Nhà phân tích Steven Tseng của Bloomberg Intelligence cho biết: "Việt Nam vẫn đang ở vị thế tương đối thuận lợi. Mặc dù mức thuế 20% không phải là mức thấp nhất, nhưng nó không nhất thiết làm giảm khả năng cạnh tranh do Việt Nam có lợi thế về chi phí, cơ sở công nghiệp đã được thiết lập và có vị trí địa lý gần Trung Quốc. Việc các nhà sản xuất Trung Quốc chuyển sang Việt Nam vẫn là điều hợp lý."  Hãng tin Bloomberg nhắc lại: Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu của chính phủ Việt Nam, đầu tư từ Trung Quốc và Hồng Kông trong nửa đầu năm nay đã tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 3,6 tỷ đô la. Trong quý II, sau khi tổng thống Trump công bố mức thuế quan đối với thế giới, con số này đã tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, c

    9 min
  8. 11 AOÛT

    EU-Việt Nam vượt bão thuế quan Mỹ qua Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA ?

    Ngày 01/08/2025, cùng ngày Mỹ công bố mức thuế đối ứng đối với 69 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu kỷ niệm tròn 5 năm Hiệp định Tự do Thương mại - EVFTA - có hiệu lực. Hoa Kỳ luôn là thị trường lớn nhất cho cả hai bên, nhưng những mức thuế quan do tổng thống Donald Trump áp đặt buộc các đối tác, trong đó có Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu, phải đa dạng hóa thị trường, giảm bớt phụ thuộc xuất khẩu sang Mỹ. Mức thuế đối ứng áp dụng cho Việt Nam, từ 46% xuống còn 20%, đã có hiệu lực từ ngày 07/08. Theo tính toán của nhóm nghiên cứu Ban Tài Khoản Quốc Gia, được ông Lê Trung Hiếu, phó cục trưởng Cục Thống Kê (Bộ Tài Chính) trích dẫn (1), mức thuế 20% này sẽ tác động làm giảm 11-12 tỷ đô la trị giá hàng xuất khẩu vào Mỹ (tương đương khoảng 9-10% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa). Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Điều này được tái khẳng định qua số liệu thống kê hải quan Mỹ trong 5 tháng đầu năm 2025 : Trao đổi thương mại song phương đạt 77,4 tỷ đô la, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2024. Đối với Liên Hiệp Châu Âu, Việt Nam là đối tác thương mại hàng đầu ở ASEAN và là đối tác đứng thứ 16 trên toàn cầu, với tổng kim ngạch thương mại song phương tích lũy gần 300 tỷ đô la trong 5 năm hiệp định EVFTA có hiệu lực (2). Cùng chịu sức ép về thuế quan của Mỹ, Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam có thể tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do - EVFTA như thế nào ? Ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam - EuroCham, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 08/08/2025. RFI : Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức thuế 20% mà Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng hóa Việt Nam. Xin ông cho biết phản ứng của EuroCham và các thành viên ? Liệu đây có phải là một bất lợi cho Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh với các nước láng giềng ASEAN (chịu mức thuế 19%) đang rất căng thẳng ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng là có phần nhẹ nhõm vì mức thuế đó xa với mức 46% được công bố ban đầu. Nhưng rõ ràng đây là một bất lợi. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, đó là mức độ cạnh tranh tương đối với các nước láng giềng trong khu vực. Chênh lệch 20%, 19%, không thực sự đáng kể, và tôi nghĩ Việt Nam có nhiều biên độ cạnh tranh và năng suất cho phép vượt qua bất lợi này. Dù sao thì đó vẫn là một bất lợi, nhưng tôi không nghĩ là sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho xuất khẩu, trong khi mức thuế 46% có lẽ sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động sản xuất. Tôi nghĩ là Việt Nam sẽ có thể đối phó được. Đọc thêmViệt Nam sẵn sàng nhập thêm nông sản Mỹ để đối phó với chính sách thuế quan mới của TT Trump RFI : Tháng 04, khi tổng thống Mỹ thông báo mức thuế đối ứng 46% đối với Việt Nam, EuroCham tiến hành một cuộc thăm dò, theo đó 25% các công ty châu Âu hoạt động tại Việt Nam cảm thấy hoạt động kinh doanh của họ bị đe dọa và 20% dự đoán doanh thu sẽ giảm. Mức thuế hiện tại là 20% sẽ tác động đến các doanh nghiệp này như thế nào ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng vậy. Mức thuế 46% sẽ rất khó khăn. 20% thì khả thi. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý là có hai mức thuế khác nhau. Mức thuế 20% được áp dụng cho các sản phẩm có nguồn gốc Việt Nam. Ngoài ra còn có mức thuế 40% nổi tiếng, mà Mỹ gọi là “trung chuyển” (transshipment). Theo thuật ngữ hải quan Hoa Kỳ, “trung chuyển” không chỉ đơn giản là dỡ hàng từ một phương tiện vận chuyển hay từ một hình thức vận chuyển này sang một phương tiện hoặc hình thức vận chuyển khác, mà chủ yếu là sự thay đổi nguồn gốc ở nước cuối cùng. Nói cách khác, nếu quyết định đánh thuế hàng “trung chuyển” được sử dụng để áp đặt một hàm lượng nội địa tối thiểu đáng kể, thì có nghĩa là để ngăn chặn nhập khẩu nguyên liệu từ các nước thứ ba, ý tôi muốn nói ở đây là Trung Quốc chẳng hạn. Đọc thêmBị Mỹ đánh thuế 46% : Việt Nam trả giá vì làm “sân sau” cho Trung Quốc ? Việc này có lẽ sẽ là một vấn đề lớn đối với phần lớn lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Tôi lấy ví dụ về ngành dệt may ở Việt Nam, một phần rất lớn vải vóc là được nhập khẩu từ Trung Quốc. Vì vậy, mức thuế 40% đánh vào hàng “trung chuyển” này sẽ mang tính quyết định cho khả năng tiếp tục phát triển của ngành công nghiệp ở Việt Nam, bởi vì hiện tại, Việt Nam không thể bảo đảm sản xuất được 100% hoặc 80% sản lượng nội địa, có thể là trừ sản xuất nông nghiệp. RFI : Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam có Quy định Xuất xứ. Các doanh nghiệp châu Âu cũng gặp vấn đề tương tự. Tuy nhiên quy định về xuất xứ của Mỹ sẽ tác động như thế nào đến hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu ở Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Trong khuôn khổ EVFTA, chúng tôi có các tiêu chuẩn quy tắc xuất xứ quy ước, xuất phát từ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - OMC/WTO và đã được đàm phán trong khuôn khổ này. Đúng là việc ngành công nghiệp Việt Nam không hoàn toàn tự chủ, và kết hợp một số lượng nguyên vật liệu đầu vào nhất định từ các nước thứ ba, đặc biệt là từ Trung Quốc, tạo ra một khó khăn, nhưng không phải là không thể vượt qua được. Vấn đề ở chỗ là với định nghĩa mới về “trung chuyển” - chúng ta hãy thử thử hình dung là sắp tới Mỹ yêu cầu 40% giá trị gia tăng (nguyên vật liệu đầu vào của hàng hóa) phải thuộc về nội địa, thì Việt Nam sẽ rất khó xuất khẩu hàng dệt may hoặc giày dép. Điều này hơi khác một chút trong khuôn khổ trao đổi với Liên Hiệp Châu Âu, bởi vì chúng tôi có các quy tắc của OMC. Đó là những quy tắc được đàm phán trong khuôn khổ của hiệp định song phương và đã được ghi nhận, đàm phán, do đó có thể dự đoán được, trong khi ở đây (với Mỹ), không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Hơn nữa, chúng ta thấy là chưa bên nào thông tin về chủ đề này. Có tin đồn rằng đàn anh Trung Quốc không mấy hài lòng và đó là một trong những lý do tại sao thỏa thuận vẫn chưa được công bố đầy đủ chi tiết, đặc biệt là về khía cạnh hàng “trung chuyển” - điều sẽ rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sản xuất tại Việt Nam. Đọc thêmQuan hệ Việt-Trung trong cơn bão thuế quan Mỹ RFI : Trong khi các hành động của Hoa Kỳ đang hướng tới chiến lược thương mại đơn phương hơn, các hiệp định thương mại tự do chiếm ưu thế như thế nào, ví dụ hiệp định EVFTA giữa Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi. Như tôi đã đề cập, các hiệp định thương mại tự do thiết lập một khuôn khổ tin cậy, hợp lý và trên hết là có thể dự đoán được, cho phép đầu tư. Đừng quên rằng để phát triển sản xuất, cần đầu tư trong 2 hoặc 3 năm. Điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều, và ông Trump sẽ phải chấp nhận điều này. Chiến lược được gọi là “đơn phương” của Mỹ, trước tiên là không thể đoán trước được, đó là điều rất tệ cho đầu tư, cho việc xây dựng hoặc di dời chuỗi giá trị. Tôi nghĩ rằng các khuôn khổ ổn định và có thể dự đoán được, chẳng hạn như các hiệp định thương mại tự do, sẽ mang lại sự bền vững và đảm bảo tính lâu dài. RFI : Làm thế nào các công ty và nhà đầu tư châu Âu, hợp tác với các đối tác Việt Nam, có thể khai thác EVFTA sau 5 năm có hiệu lực để bù đắp những khó khăn do thuế quan của Mỹ gây ra ? Jean-Jacques Bouflet : Đầu tiên là phải có các điều kiện cạnh tranh công bằng. Tôi xin nhắc lại rằng Liên Hiệp Châu Âu đã chấp nhận sự bất đối xứng trong việc thực hiện EVFTA, vì Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Việt Nam có 10 năm để đạt được thương mại tự do hoàn toàn. Họ vẫn còn 5 năm nữa. Và có một số hàng hóa vẫn còn thuế quan đáng kể, mặc dù chúng đã bắt đầu giảm đáng kể. Nhưng vẫn còn những loại thuế, ví dụ như đối với ô tô. Tất nhiên, ô tô do Liên Hiệp Châu Âu xuất khẩu sẽ có thuế quan bằng 0 sau 9 hoặc 10 năm. Thử tưởng tượng rằng ô tô của Mỹ sẽ có thuế quan bằng 0 vào tháng 10 hoặc ngày 01/01/2026. Nếu như vậy, các điều ki

    10 min

À propos

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam

Plus de contenus par RFI Tiếng Việt

Vous aimeriez peut‑être aussi