Tạp chí tiêu điểm

Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI

  1. -2 J

    Taiwan Relations Act và những thách thức từ chính quyền Trump 2.0

    Vào lúc Trung Quốc tăng cường các hoạt động hăm dọa quân sự xung quanh đảo Đài Loan, tổng thống Mỹ Donald Trump kể từ ngày nhậm chức đã có những cử chỉ gây áp lực với chính quyền Đài Bắc từ quốc phòng, kinh tế cho đến công nghệ. Điều này làm dấy lên nghi vấn : Liệu các bảo đảm về an ninh trong khuôn khổ Taiwan Relations Act mà Hoa Kỳ cung cấp cho Đài Loan vẫn sẽ vững chắc ? Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2013, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có một mục tiêu : Thống nhất Trung Quốc bằng cách đặt Đài Loan dưới sự quản lý của Bắc Kinh, kể cả bằng vũ lực nếu cần thiết. Tuy nhiên, đảo Đài Loan, mà Trung Quốc coi như là một phần lãnh thổ, một tỉnh ly khai, từ năm 1979, được hưởng sự bảo vệ của Mỹ thông qua Taiwan Relations Act (Đạo luật Quan hệ Đài Loan). TRA : Hoàn cảnh ra đời Chính sách này của Mỹ đối với Đài Loan ra đời trong bối cảnh Washington công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có thủ đô là Bắc Kinh, như là nước Trung Quốc duy nhất, quốc gia mà Mỹ thiết lập quan hệ chính thức. Theo Camille Grand, nhà nghiên cứu tại Hội đồng Châu Âu về Quan hệ Quốc tế (ECFR), cựu trợ lý tổng thư ký NATO, trên làn sóng France Culture ngày 18/07/2025, việc Hoa Kỳ tìm cách xích lại gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông, ngoài mục tiêu chiến lược chống Liên Xô, còn thể hiện một cái nhìn thực tế chiến lược của Washington, « về một đất nước sắp có một tỷ dân so với một hòn đảo nhỏ dân tộc chủ nghĩa mà cơ may lấy lại quyền lực ở lục địa đã trở thành một điều khôi hài ». Tuy công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Washington vẫn muốn duy trì các mối quan hệ đồng minh tại vùng Thái Bình Dương, và do vậy Mỹ vẫn hiện diện tại Hàn Quốc, Nhật Bản, cũng như đúc kết một mối quan hệ với Đài Loan trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về an ninh, quốc phòng. Cũng trên làn sóng France Culture, chuyên gia về Trung Quốc, Alice Ekman, giám đốc nghiên cứu Viện Nghiên cứu An ninh Liên Hiệp Châu Âu, lưu ý TRA là một văn bản cho phép định hình hợp tác quốc phòng, nhưng không bảo đảm bất kỳ sự can thiệp quân sự nào của Mỹ nếu Đài Loan bị tấn công: «"Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Tây Thái Bình Dương", như cách gọi vào thời điểm đó. Sau đó, mục 2, đoạn 2, đề nghị cung cấp cho Đài Loan "vũ khí phòng thủ cần thiết để đảm bảo sự ổn định và an ninh này". Rồi ở mục 3, tôi sẽ không đi sâu vào thủ tục và chi tiết, nhưng điều quan trọng là văn bản này cũng chính thức hóa việc bán vũ khí cho Đài Loan: "Hoa Kỳ cam kết cung cấp cho Đài Loan các mặt hàng quốc phòng và dịch vụ quốc phòng với số lượng đủ để đảm bảo khả năng tự vệ của Đài Loan" ». Trump II và những thách thức cho TRA Trong nhiệm kỳ I, tổng thống Trump đã để lại ấn tượng mạnh mẽ và tích cực đối với Đài Loan. Chính sách thuế quan và các quyết định hạn chế chuyển giao công nghệ của ông đã giúp Đài Loan đạt được mục tiêu mà họ theo đuổi từ gần hai thập niên : Đa dạng hóa đầu tư Đài Loan và dịch chuyển sang các quốc gia khác trong khu vực, đồng thời khuyến khích đưa một số nhà xưởng về đảo. Trong lĩnh vực quốc phòng, chính quyền Trump I cũng có những cử chỉ tích cực với doanh số bán vũ khí cho Đài Bắc đã đạt mức 18 tỷ đô la, so với con số 14 tỷ thời chính quyền Obama. Cũng trong nhiệm kỳ I, ông Trump còn ký Taiwan Travel Act (Đạo luật Du lịch Đài Loan) năm 2018, chấm dứt một số hạn chế trao đổi chính thức kể từ khi quan hệ bang giao bị cắt đứt năm 1979. Nhưng từ khi bắt đầu nhiệm kỳ II, mọi sự thay đổi. Tổng thống Trump có những phát biểu gay gắt đối với Đài Bắc, cho rằng hòn đảo này đã đánh cắp công nghệ chip bán dẫn, rằng Đài Loan phải tăng chi quốc phòng, và phải trả « phí bảo vệ » tương tự như một loại phí « bảo hiểm an ninh ». Và gần đây nhất, theo như tiết lộ của tờ Washington Post, tổng thống Mỹ dường như đã từ chối phê duyệt gói viện trợ quân sự cho Đài Loan trị giá hơn 400 triệu đô la. Gói viện trợ này bao gồm các mặt hàng như đạn dược và drone. Nhà Trắng tuyên bố rằng quyết định này vẫn chưa hoàn tất. Ngoài ra, hồi tháng 7/2025, ông Trump còn ngăn cản tổng thống Đài Loan trên đường đến thăm các nước bạn bè Trung Mỹ quá cảnh vào Mỹ sau khi có những phản đối từ Trung Quốc, khiến ông phải hủy chuyến đi. Trước đó, một tháng, Washington hủy một cuộc họp dự kiến tại Mỹ với bộ trưởng Quốc Phòng Đài Loan. Tất cả những động thái « bất thường » này của Mỹ đã làm dấy lên nỗi lo lắng : Chính sách bảo vệ Đài Loan của Mỹ có được bảo đảm dưới thời chính quyền Trump 2.0 ? Liệu những cử chỉ này của ông Trump có làm suy yếu « TRA » mà Mỹ cung cấp cho Đài Bắc ?   Để trả lời những câu hỏi trên, nữ chuyên gia về Trung Quốc Alice Ekman, cho rằng nên xét đến vấn đề bán vũ khí. « TRA » là một văn bản chính thức hóa tính liên tục và nhu cầu cung cấp vũ khí cho Đài Loan. Câu hỏi đặt ra ở đây là bất chấp những áp lực từ Trung Quốc, tình hình bán vũ khí cho Đài Loan dưới thời Trump II ra sao ? « Vẫn còn quá sớm để biết được vì ông ấy chỉ mới bắt đầu nhiệm kỳ, nhưng người ta cũng đã bắt đầu có vài ước tính. Chính quyền Mỹ hy vọng sẽ đạt được thành tích như thời Trump I trên phương diện bán vũ khí. Nghĩa là, trong nhiệm kỳ I, họ đã phê duyệt các giao dịch bán vũ khí cho Đài Loan với tổng trị giá là 18 tỷ đô la và do vậy, họ hy vọng chí ít sẽ đạt được con số tương tự, thậm chí cao hơn. Để so sánh, dưới thời Biden, doanh số bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan đạt tổng cộng 8 tỷ đô la. Vì vậy, đây là điều thú vị nên xem xét đến, dù rằng người ta có ấn tượng là ông Trump chưa nói nhiều đến Đài Loan, thậm chí không hề nhắc đến hòn đảo này trong bài phát biểu nhậm chức ngày 20/01/2025. Nhưng điều tôi muốn nói là tôi không thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Hoa Kỳ sẽ thay đổi hướng đi liên quan đến Đài Loan kể từ đầu nhiệm kỳ của Trump. Điều tôi thấy, và tôi nghĩ nhiều nhà phân tích cũng thấy, là một cách tiếp cận mang tính giao dịch nhiều hơn, điều đó không có gì mới mẻ ». « TRA » : Đối tượng gây căng thẳng và áp lực Tuy nhiên, theo cách nhìn từ nhà nghiên cứu về an ninh Camille Grand, những phát biểu trên của tổng thống Trump còn là biểu hiện của những căng thẳng trong nội bộ chính trường Mỹ từ hai trường phái. Giữa một bên có sự đồng thuận lưỡng đảng xem cạnh tranh với Trung Quốc là một ưu tiên, trong đó Đài Loan là một trong những điểm nóng và do vậy, ủng hộ bảo đảm an ninh cho Đài Loan mạnh mẽ. « Và đây đặc biệt là quan điểm rất rõ ràng của Lầu Năm Góc, đề cập đến một phần lớn các công cụ quân sự của họ, vị thế của họ ở châu Á, trong trường hợp xảy ra khủng hoảng liên quan đến Đài Loan. Đây chính xác là những gì Bộ trưởng Quốc phòng Peter Hegseth đã phát biểu tại Singapore cách đây không lâu. Nhưng cũng có một xu hướng thứ hai trong phe Cộng hòa, nhìn chung theo chủ nghĩa biệt lập hơn, vì vậy họ rất thô bạo với châu Âu, với chủ trương "hãy tự lo liệu an ninh của mình", và cả trong bối cảnh châu Á, họ cũng nói với các đồng minh rằng, "nếu quý vị không tăng chi tiêu quốc phòng, nếu quý vị không tự lo cho an ninh của mình, chúng tôi sẽ xem xét những gì chúng tôi có thể sẽ làm". Và như vậy, với một thứ áp lực ngầm lên các đồng minh châu Á, dù là Nhật Bản, Hàn Quốc và nhất là Đài Loan hiện đang trên tuyến đầu do mối quan hệ an ninh kém vững chắc của họ, vì không có quân đội Mỹ thường trực, không có hiệp ước nào, như chúng tôi đã đề cập trước đó. » Ngoài ra, vì chỉ là một văn bản luật, không phải là một hiệp ước liên minh quân sự như ông Camille Grand đề cập ở trên, nên TRA luôn mang tính bất ổn và là đối tượng gây sức ép thường trực từ phía Đài Loan và Trung Quốc. Ông giải thích tiếp : « Một nhóm vận động hành lang của Đài Loan hoạt động rất mạnh mẽ - không phải theo nghĩa xấu - tại Washington, và nhóm này vẫn

    12 min
  2. 25 SEPT.

    Mỹ tốc lực tái lập quan hệ với Belarus: Kịch bản hoàn toàn có lợi cho Putin?

    Quan hệ giữa Mỹ và Belarus, quốc gia thường được coi là hoàn toàn nằm trong quỹ đạo của điện Kremlin, có một số biến chuyển bất ngờ. Quan sát viên Mỹ được mời dự tập trận Zapad do Nga và Belarus chủ trì. Washington mở lại sứ quán tại Belarus. Trừng phạt với hãng hàng không quốc gia Belarus được dỡ bỏ sau khi Minsk thả hàng chục tù chính trị. Việc Mỹ và Belarus tốc lực bình thường hóa quan hệ có phải là một kịch bản nằm hoàn toàn trong lợi ích của chế độ Putin? Drone Nga xâm nhập lãnh thổ NATO, Mỹ được mời quan sát tập trận Zapad Ngay trước khi cuộc tập trận lớn Zapad 4 năm một lần, đêm 09/09/2025 khoảng 20 drone Nga xâm nhập lãnh thổ Ba Lan, quốc gia sườn đông của khối NATO. Đây là lần thứ 4 trong lịch sử liên minh phòng thủ NATO từ khi thành lập năm 1949, điều 4 Hiến chương của khối được một quốc gia thành viên kích hoạt để tham vấn các đồng minh. Lần đầu tiên chiến đấu cơ NATO được huy động để hủy diệt mục tiêu xâm nhập không phận của một thành viên. Chính trong bối cảnh đó, các quan sát viên quân đội Mỹ đã được mời tham dự cuộc tập trận Zapad vào hai ngày cuối, 15 và 16/09.  Trước đó, ngày 11/09, chính quyền Minsk trả tự do cho 52 tù nhân nhiều quốc tịch, trong đó có 14 công dân nước ngoài và nhiều tù nhân chính trị Belarus, gồm cả ông Nikolai Statkevich, ứng cử viên tổng thống Belarus năm 2010 (người đã không chấp nhận đi ra nước ngoài, nên sau đó bị đưa trở lại nhà tù). Tuyên bố trả tự do cho tù nhân nói trên được đưa ra vào lúc luật sư John Coale, đặc sứ của tổng thống Trump, dẫn đầu một phái đoàn Mỹ đến Minsk. Cũng trong dịp này, phía Mỹ thông báo mở lại sứ quán tại Belarus, bị đóng cửa năm 2022 sau khi Nga xâm lược Ukraina, dùng Belarus làm bàn đạp tấn công Ukraina từ phía bắc. Trước đó, quan hệ giữa chính quyền Trump và Belarus đã có một bước tiến đáng kể. Hồi cuối tháng 6/2025, đặc phái viên của tổng thống Mỹ về Ukraina, ông Keith Kellogg, công du Belarus. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa một quan chức cấp cao Nhà Trắng và nhà độc tài Belarus từ 5 năm nay, và chuyến thăm đã « đánh dấu một bước ngoặt lớn » so với chính sách của tổng thống tiền nhiệm Joe Biden. Trong dịp này chế độ Lukashenko đã trả tự do cho 14 tù nhân chính trị Belarus, trong đó có ông Sergei Tikhanovsky, lãnh đạo đối lập, bị bắt giam khi cổ vũ cho phong trào biểu tình phản đối chính quyền trước cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Ông Tikhanovsky là chồng của bà Sviatlana Tsikhanouskaya, lãnh đạo hiện tại của phong trào đối lập Belarus, tị nạn ở hải ngoại. Đọc thêm : Quốc Hội Belarus « hợp thức hóa » trấn áp phong trào đòi dân chủ Trước khi bay đi Alaska hội kiến với tổng thống Nga Vladimir Putin ngày 15/08, ông Trump đã gọi điện cho tổng thống Lukashenko. Sau cuộc điện đàm, ông Trump gọi nhà độc tài Belarus, hiện không được các nước phương Tây công nhận sau cuộc bầu cử bị lên án là gian lận, là « vị tổng thống rất đáng kính », cho biết đã nhận lời mời thăm Belarus và « nóng lòng » gặp mặt đồng nhiệm. Vì sao Trump và chế độ Minsk nhanh chóng xích lại gần nhau ? Điểm chung bề ngoài có thể thấy rõ giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà độc tài Belarus là hai bên có sự gặp gỡ về quan điểm trong việc ủng hộ việc tìm giải pháp cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina. Hãng thông tấn Nhà nước Belarus Belta, trong một bài viết hồi cuối tháng 8/2025 (« Lukashenko: Trump excelled as a mediator during Alaska talks / Tổng thống Belaurs : Trump là một nhà trung gian tuyệt vời tại cuộc đối thoại Alaska »), cho biết tổng thống Belarus đã ca ngợi lãnh đạo Mỹ, bênh vực cuộc thượng đỉnh Alakska, bị không ít người lên án là đã quá nhân nhượng Putin. Một chuyên gia hàng đầu về Belarus, ông Artyom Shraibman, trong một bài trả lời phỏng vấn, với chủ đề chính « Những gì diễn ra trong lòng Belarus » (What’s Going On Inside Belarus), đăng tải cuối tháng 8/2025 trên trang Carnegie Russia Eurasia Center, đã ghi nhận các nỗ lực bình thường hóa quan hệ Mỹ - Belarus diễn ra vào thời điểm mà các đàm phán giữa Mỹ và Nga nhằm tìm giải pháp chấm dứt xung đột Ukraina « rõ ràng đang bị đình trệ ». Đọc thêm : Hạn định 50 ngày với Nga và rủi ro bế tắc chính trị cho Donald Trump Tổng thống Trump đã tuyên bố chấm dứt chiến tranh 24 giờ sau khi nhậm chức, rồi sau đó triển hạn thêm 6 tháng. Nửa năm đã trôi qua, cuộc xung đột tiếp diễn. Không có gì cho thấy là Nga từ bỏ các tham vọng tối đa về Ukraina, như chiếm lĩnh nhiều vùng lãnh thổ của Ukraina, đòi Ukraina phi quân sự hóa. Theo chuyên gia Artyom Shraibman, trong lúc tổng thống Lukashenko tìm cách thoát thế cô lập, dùng việc trả tự do cho các tù nhân chính trị  đổi lại việc dỡ bỏ trừng phạt, và cải thiện quan hệ với Mỹ, ông Trump muốn phá thế bế tắc trong các đàm phán với Nga về chấm dứt chiến tranh Ukraina, thông qua Belarus. Mỹ bình thường hoá quan hệ với Belarus : « Con đường vòng » để Washington bỏ cấm vận Nga ? Việc Mỹ đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với Belarus, quốc gia đàn em của Nga, được một số nhà quan sát xem như mang lại nhiều lợi thế cho điện Kremlin. Nhà báo Marie Jégo, của Le Monde, chuyên về Nga, cựu thông tín viên tại Matxcơva, trong bài « Sự nhượng bộ hoàn toàn của Trump đối với Putin », nêu bật : « Về những điều đã xảy ra, cá nhân tôi thấy khá là bất ngờ. Và đây là điều đã không được các chuyên gia và nhà quan sát thực sự chú ý. Đó là vụ xâm nhập bằng drone của Nga vào bầu trời Ba Lan, và chỉ một ngày sau sự kiện này, nước Mỹ đã cử một đặc phái viên đến Minsk. Mỹ đã đạt được thỏa thuận với nhà độc tài Lukashenko, người được Matxcơva coi là một quân cờ, và chính Belarus là nơi khởi nguồn của cuộc tấn công xâm lược Ukraina của Nga. Và từ Belarus, mà tên lửa đã bắn vào Ukraina. Belarus đã can dự rất nhiều vào cuộc chiến này. Vậy là người Mỹ đã đến đó chỉ một ngày sau sự kiện kinh hoàng drone Nga xâm nhập. Họ đã đến đó. Và đã có một cuộc đàm phán. Ông Lukashenko đã thả 52 tù nhân chính trị. Riêng điều này thì chúng tôi rất vui. Đây là điều tốt. Nhưng mặt khác, chính quyền Mỹ cũng cho biết họ đang dỡ bỏ các trừng phạt, đặc biệt là đối với lĩnh vực hàng không dân dụng của Belarus. Điều đó có nghĩa là Belarus giờ đây sẽ có thể nhận được phụ tùng thay thế từ hãng Boeing của Mỹ. Và nếu như Belarus được như vậy, thì Nga cũng sẽ là nước nhận được. Như vậy, có thể nói, đây là một con đường vòng để dỡ bỏ các trừng phạt Nga. » Đọc thêm : Mỹ « bình thường hóa » quan hệ với Nga: Ác mộng với châu Âu và Ukraina? Trang mạng chuyên về chính trị Quốc tế Politico.eu, có bài ghi nhận về « nguy cơ tan vỡ » của mặt trận Mỹ - Âu trừng phạt Nga.   Minsk với thế đi dây một thời giữa nước Nga Putin và châu Âu dân chủ Trước cuộc xâm lăng Ukraina của Nga, kể từ khi lên cầm quyền năm 1994, tổng thống Belarus đã xây dựng chiến lược cân bằng giữa hai đối cực, giữa nước Nga của Putin và châu Âu dân chủ. Chế độ Lukashenko đã lợi dụng vị thế địa-chiến lược đặc biệt nằm ở giữa Liên Âu và Nga để thực thi chính sách « đi dây ». Belarus phụ thuộc vào Nga về năng lượng, quân sự và chính trị, nhưng mặt khác chính sách cởi mở có chọn lọc của quốc gia thành viên Liên Xô cũ này với Liên Âu đã giúp cho Minsk được nhiều lợi thế về kinh tế. Chuyên gia về Belarus, Artyom Shraibman, trên Carnegie Endowment for International Peace, trong bài « Not So Quiet on the Eastern Front: Elements of a Risk Management Strategy Toward Belarus » (Mặt trận phía Đông không quá yên tĩnh: Một số đề xuất về chiến lược quản lý rủi ro đối với Belarus) (6/2025) ghi nhận : « Cho đến năm 2020 (tức trước cuộc bầu cử tổng thống bị lên án là gian lận), ông Lukashenko đã tìm cách duy trì thế cân bằng mong manh của Belarus giữa phương Tây và Nga, đòi phần thưởng từ mỗi bên để đổi lấy việc không xích lại gần bên kia. Chìa khóa cho chiến thuật này là khả năng của Minsk trong việc xử lý mối quan hệ với Nga như một con lắc (pendulum). Sự linh hoạt đó đã đột ng

    9 min
  3. 18 SEPT.

    Hạt nhân Iran và vai trò « bị lãng quên » của phương Tây

    Ngày 28/08/2025, Anh, Pháp và Đức đã dọa kích hoạt cơ chế tái áp đặt các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, còn được gọi là « snapback », vào lúc thỏa thuận về hạt nhân Iran ký kết 2015 sắp hết hiệu lực ngày 18/10/2025. Nhưng ít ai biết rằng, trong quá khứ, một số nước phương Tây, đặc biệt là Pháp, đã từng đóng góp tích cực vào việc khai sinh chương trình hạt nhân Iran. Một mảng tối khác trong mối quan hệ căng thẳng giữa Iran và phương Tây. Ngược dòng thời gian, vào năm 1957, vào lúc châu Âu đang vực dậy từ nỗi kinh hoàng của Đệ Nhị Thế Chiến, Iran, dưới sự trị vì của vua Mohammad Reza Pahlavi, đã bắt tay vào việc tìm kiếm năng lượng nguyên tử. Quốc vương Iran lo sợ rằng dầu hỏa mà đất nước phụ thuộc một ngày nào đó sẽ cạn kiệt và do vậy phải tìm kiếm một giải pháp thay thế. Atome For Peace : Đổi hạt nhân lấy dầu lửa Một dự án điện hạt nhân dân sự được hình thành qua sự trợ giúp của chương trình « Atom for Peace – Nguyên tử vì hòa bình », do tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower khởi xướng từ năm 1953. Cũng như nhiều nước thành viên khác của chương trình, Iran cam kết giới hạn sử dụng hạt nhân cho mục đích hòa bình. Đổi lại, Hoa Kỳ đào tạo các nhà khoa học Iran và cung cấp các trang thiết bị cho Teheran, bao gồm lò phản ứng nghiên cứu được thiết kế vào năm 1967 để sản xuất đồng vị phóng xạ dùng trong y tế. Quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước kéo dài cho đến cuối những năm 1970. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), vào tháng 12/2022, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, chuyên gia về phổ biến hạt nhân Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) giải thích « trong những năm 1950, dưới thời quốc vương Iran, mối quan hệ giữa Mỹ và Iran rất bền chặt. Hoa Kỳ đã đưa Iran vào chương trình Atom For Peace (Nguyên tử vì hòa bình), được sử dụng để phát triển chương trình hạt nhân dân sự cho Iran, để đổi lấy dầu lửa và sự bảo đảm rằng quốc gia này sẽ duy trì một chế độ ổn định gần gũi với Hoa Kỳ ». Tuy nhiên, vào lúc diễn ra Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ ngày càng lo lắng khi thấy xuất hiện nhiều cường quốc hạt nhân khác. Chương trình « Nguyên tử vì hòa bình » có nguy cơ phản tác dụng. Năm 1968, Iran gia nhập Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân TNP và đặt các cơ sở hạt nhân của mình dưới sự giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (AIEA). Nhưng quốc vương Iran có tham vọng xây thêm 20 lò phản ứng, đồng thời bày tỏ quan tâm đối với một số công nghệ. Điều này đã khiến Mỹ lo ngại, nhất là đối với kỹ thuật tách rời plutonium hoặc làm giầu uranium. Mặc dù mục tiêu nêu ra vẫn mang tính dân sự, Washington nghi ngờ vua Iran âm thầm thèm khát vũ khí nguyên tử. Clément Therme, giáo viên tại Đại học Paul-Valéry tại Montpellier, trong chương trình Giải Mã (19/05/2025) của kênh truyền hình ARTE nhắc lại, « ngay từ tháng 12/1975, Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA) đã đánh giá rằng Iran rất có thể sẽ trang bị hệ thống vũ khí hạt nhân vào năm 1985. Vì vậy, ngay từ những năm 1970, đã có những nghi vấn về mục đích dân sự hay quân sự của chương trình Iran ». Pháp, Đức thay chân Mỹ Trước mối ngờ vực từ Mỹ, quốc vương Iran chuyển hướng tìm kiếm các đối tác châu Âu, được đánh giá là « ít quan tâm » đến những vấn đề được nêu trên, theo như nhận định của François Nicoullaud, cựu đại sứ Pháp ở Téhéran, trong bài viết đề tựa « La France et la négociation avec l’Iran » (Pháp và cuộc đàm phán với Iran). Pháp và Tây Đức thời đó đang chạy theo vàng đen của Iran. Cú sốc dầu hỏa năm 1973 biến Teheran thành một đối tác thiết yếu và ưu tiên cho Paris. Trong một bài giải thích, trang RFI tiếng Pháp nhắc lại, ngay từ năm 1974, bộ trưởng Tài Chính lúc bấy giờ là Jean-Pierre Fourcade đã ký kết rất nhiều hợp đồng với Iran để bảo đảm nguồn cung dầu khí cho đất nước. Teheran là nhà cung cấp nhiên liệu thứ hai cho Paris. « Chuyến thăm của Quốc vương tới Marcoule có ý nghĩa quan trọng hơn sau thông báo đặt xây năm nhà máy điện hạt nhân được xác nhận hôm qua và các thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp uranium làm giàu cho Iran. » (France 2 ngày 25/06/1974) Trên đây là lời bình của bản tin lúc 20 giờ kênh truyền hình Pháp France 2 ngày 25/06/1974, nhân chuyến thăm của quốc vương Iran đến Pháp và trung tâm khai thác điện hạt nhân ở Marcoule vùng Gard, đông nam Pháp. Được xây dựng vào năm 1956, cơ sở công nghiệp này từng là mũi nhọn cho ngành năng lượng hạt nhân Pháp, cả về sản xuất điện lẫn sử dụng cho mục đích quân sự. Với hợp đồng trị giá gần 5 tỷ đô la – một khoản tiền « khổng lồ » theo như tuyên bố của bộ trưởng Tài Chính Jean-Pierre Fourcade – Pháp thay thế Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân bất chấp những ngờ vực của Washington. Paris cam kết đào tạo nhân sự và cung cấp các nhà máy điện hạt nhân cho Teheran như hai lò phản ứng tại Ahvaz miền nam Iran do tập đoàn Framatome của Pháp xây dựng. Nước Đức cũng không kém cạnh. KraftWerk Union, một chi nhánh của tập đoàn năng lượng Siemens, trúng thầu xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân ở Bushehr, miền nam Iran, trị giá 7,8 tỷ mác Đức. Chính quyền Berlin còn ký kết một thỏa thuận về hợp tác hạt nhân với vua Iran, tương tự như « hợp đồng thế kỷ », được ký một năm trước đó với Brazil. Cổ đông Eurodif : Tham vọng hạt nhân của vua Iran ? Tuy nhiên, việc các nước đồng minh mới châu Âu có những hứa hẹn tham gia tích cực vào chương trình phát triển hạt nhân Iran càng củng cố hơn nỗi lo lắng từ Mỹ. Không những vua Iran tự cung cấp phương tiện cho các tham vọng của mình và cùng với những thỏa thuận khác nhau, quốc vương Mohammad Reza còn biến nước ông thành một trong những nhà đầu tư chính cho ngành hạt nhân Pháp. Trong khuôn khổ thỏa thuận hợp tác đầu tư Eurodif - European Gaseous Diffusion Uranium Enrichissement Consortium - quốc vương Iran cho Pháp vay một tỷ đô la để xây dựng nhà máy làm giầu chất uranium Tricastin và sở hữu 10% vốn của Eurodif. Đổi lại, Iran bảo đảm lấy đi 10% chất uranium làm giầu do Eurodif sản xuất. Nhìn lại lịch sử, người ta không khỏi đặt nghi vấn về ý định quân sự của vua Iran. Một công nghệ « lưỡng dụng » uranium làm giàu có thể được sử dụng cả cho các nhà máy điện hạt nhân lẫn các đầu đạn được chế tạo theo mô hình Little Boy, từng được sử dụng để san bằng Hiroshima. Trong cuộc chạy đua vũ trang thời Chiến Tranh Lạnh, liệu quốc vương Iran có muốn trang bị vũ khí hạt nhân cho đất nước mình hay không ? Theo báo Pháp Le Monde, ngày 20/07/2025, trong bài viết dài đề tựa « Khi Pháp hứa hẹn uranium làm giầu cho Iran, nguồn cội của một hiệp ước hạt nhân đáng nguyền rủa », Akbar Etemad, chủ tịch Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Iran (1974 – 1978) trước ống kính trong một bộ phim tài liệu của France 2 phát sóng ngày 08/10/2017, kể lại ông đã chất vấn Quốc vương như thế nào: « Liệu chúng ta có thể cân nhắc phương án quân sự hay không ? Ông ấy nói với tôi là 'Tại sao không?' Tôi hiểu rằng nhiệm vụ của tôi là phát triển tất cả các công nghệ cần thiết để sẵn sàng triển khai bom hạt nhân ». Vào thời điểm đó, Mohammad Reza Pahlavi khẳng định ông không cần đến bom nguyên tử. Dù không thể chắc chắn, châu Âu đã tin lời ông. Ngoại trưởng Pháp Jean-François Poncet (1978 – 1981), trong một chương trình phim tài liệu của kênh ARTE, khẳng định rằng, « tất cả các biện pháp phòng ngừa luôn được đặt ra để đảm bảo những gì chúng tôi thực hiện về phát triển hạt nhân với Iran sẽ không được sử dụng cho mục đích quân sự. » Cách mạng Hồi giáo 1979 và các cuộc khủng hoảng Pháp - Iran Nhưng cuộc Cách mạng Hồi giáo 1979 bùng nổ, buộc vua Iran phải sống lưu vong, chương trình hạt nhân của ông cũng tan theo. Đại giáo chủ Khomeini lên cầm quyền và chính quyền mới cho ngưng tất cả các hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cũng như mua chất uranium. Hai tập đoàn Framatome của Pháp và KWU của Đức chấm dứt công trình và cho hồi hương các nhân viên. Ngoài ra, Teheran còn đòi Paris phải hoàn trả tiền

    11 min
  4. 11 SEPT.

    Chấm dứt xung đột tại Ukraina: Mỹ, Nga đổ dồn trách nhiệm lên châu Âu

    Tám tháng kể từ khi Donald Trump trở lại nắm quyền, cuộc xâm lăng Ukraina của Nga không có dấu hiệu chấm dứt bất chấp các vận động ngoại giao của tổng thống Mỹ, được quảng bá rầm rộ là có thể làm thay đổi lập trường của điện Kremlin. Vào lúc khả năng đạt được ngừng bắn tại Ukraina trở nên xa vời, châu Âu bị Nga lên án làm « thất bại » các nỗ lực hướng đến hòa bình. Phe cầm quyền tại Mỹ đòi hỏi châu Âu đóng góp nhiều hơn nữa trong hồ sơ Ukraina. Mỹ và Nga đổ dồn trách nhiệm lên châu Âu trong vấn đề chiến tranh Ukraina như thế nào ? Lối thoát nào với châu Âu trong tình thế nhiều phần bế tắc hiện nay ? *** Ngày 04/09/2025, hơn 30 quốc gia thuộc « Liên minh tình nguyện » bảo đảm an ninh cho Ukraina họp tại Paris và trực tuyến dưới sự chủ tọa của tổng thống Pháp và thủ tướng Anh. Sau hội nghị này, 26 quốc gia cam kết sẽ triển khai lực lượng tại Ukraina để bảo đảm an ninh một khi xung đột chấm dứt. « Liên minh tình nguyện » đã được gấp rút lập ra theo sáng kiến của Pháp và Anh, trong bối cảnh tân chính quyền Trump đe dọa đàm phán riêng rẽ với Nga về chiến tranh Ukraina, và để ngỏ khả năng không tuân thủ điều 5 của Hiến chương NATO, cam kết bảo vệ các đồng minh. « Lực lượng bảo đảm an ninh » cho Ukraina : « Chiếc vé » giúp châu Âu tham gia đàm phán ? Châu Âu lên tuyến đầu. Việc thành lập « Liên minh tình nguyện » giúp châu Âu khẳng định vị thế. Trả lời phỏng vấn đài France Info, hồi đầu tháng 5/2025, chuyên gia Jean de Gliniasty, cựu đại sứ Pháp tại Nga, giám đốc nghiên cứu Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), nhận định : Liên minh tình nguyện từng được coi như một « chiếc vé » vào cửa, cho phép Châu Âu có chỗ tại bàn đàm phán về giải pháp chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, đây là một chiếc vé bấp bênh bởi phụ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ: « Vậy là ở đây chúng ta từng có một thứ như kiểu vé vào cửa. Ông Trump đã từng nói châu Âu ‘‘bất tài’’ và ‘‘không có vé vào cửa’’, không có chỗ ngồi ở bàn đàm phán. Mà cái vé vào cửa mà chúng ta có thể có, đó chính là mang lại ‘‘các bảo đảm an ninh’’. Bởi vì chính Mỹ cũng đã nói họ sẽ không đưa một binh sĩ nào đến để bảo vệ Ukraina, và việc đảm bảo an ninh phải do chính người châu Âu lo liệu. Chính vì thế mà châu Âu đã thực thi một chút nghĩa vụ của mình. Hiện có 30 quốc gia châu Âu sẵn sàng đưa quân đến để đảm bảo an ninh cho Ukraina. Nhưng Nga cho rằng những ‘‘bảo đảm an ninh’’ do Pháp và châu Âu đưa ra thực chất là với tư cách đồng minh của Ukraina, và như vậy là thù địch với Nga. Vì thế, họ không muốn. Thực ra chúng ta đang rơi vào bế tắc, và hiện tại chúng ta đã không còn ‘‘vé vào cửa’’ bàn đàm phán nữa ». Bốn tháng sau, vào thời điểm Liên minh tình nguyện được khẳng định mạnh mẽ hơn với cuộc họp tại Paris hôm 4/9, vẫn chuyên gia Jean de Gliniasty ghi nhận : « chiếc vé » vào bàn đàm phán của châu Âu vẫn « tạm thời bị đình chỉ », để chờ đợi các kết quả thương lượng giữa Mỹ và Nga. Vị thế « chiếu dưới » của châu Âu và cuộc phản công ngoại giao của Nga « hậu thượng đỉnh Alaska » Xin nhắc lại là ít tháng trước khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, trong bối cảnh Nga liên tục khẳng định muốn thương thuyết lại với phương Tây về việc khối NATO mở rộng về phía đông, và việc triển khai các hệ thống vũ khí tối tân tại nhiều nước láng giềng với Nga, các nước châu Âu đã gần như không có tiếng nói gì trong hồ sơ này. Chiến tranh bùng nổ, châu Âu bừng tỉnh, nỗ lực ban hành các biện pháp trừng phạt Nga, cùng với Mỹ, hậu thuẫn Ukraina về quân sự và nhiều mặt. Tuy nhiên, về các đàm phán chấm dứt chiến tranh, nhìn chung châu Âu không có tiếng nói. Nói một cách khác, châu Âu vốn phụ thuộc nặng nề vào Mỹ về mặt đảm bảo an ninh cho chính châu Âu, nên luôn ở vị thế chiếu dưới, khó có thể nào có được một vị trí đáng kể trong các thương lượng về viễn cảnh chấm dứt chiến tranh Ukraina kể từ khi chiến tranh bùng nổ. Không những thế, sau cuộc thượng đỉnh Trump – Putin tại Alaska, Mỹ, ngày 15/08/2025, chế độ Putin thoát khỏi thế cô lập tương đối về ngoại giao, đã tranh thủ cơ hội để phản công châu Âu. Nga đổ lỗi cho châu Âu về bất kỳ thất bại nào trong các đàm phán tương lai, cáo buộc châu Âu trở thành « trở ngại chính » do thúc đẩy đối đầu về ý thức hệ, trong lúc Trump và Putin nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận. Nhật báo thân điện Kremlin Izvestia mỉa mai « Bruxelles và Kiev đang thành trở ngại chính cho hòa bình ». Một nguồn tin gần gũi với điện Kremlin tung ra quan điểm « lần đầu tiên, có một cơ hội thực sự để bắt đầu đàm phán với Ukraina và châu Âu về tất cả các vấn đề cần giải quyết để chấm dứt chiến tranh, thế nhưng giờ đây xuất hiện một vấn đề nan giải thực sự đối với châu Âu, đang mắc kẹt trong ngõ cụt về tư tưởng. Đó là họ đang bảo vệ những nguyên tắc trừu tượng trong khi hàng trăm nghìn người đã bỏ mạng trong chiến tranh. Cuộc chiến mà Kiev đã thua trên thực tế cần phải được chấm dứt, chứ không phải cứ tiếp tục cho đến khi Ukraina bị hủy diệt hoàn toàn ». Tổng thống Nga « hy vọng châu Âu sẽ không cố gắng phá hoại tiến trình này bằng những hành động khiêu khích hoặc những âm mưu trong hậu trường ». Người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Nga Maria Zakharova mỉa mai : « Tinh thần đồng đội của ‘‘liên minh’’ Starmer-Macron-Merz-Rutte-von der Leyen (tức các lãnh đạo Anh, Pháp, Đức, NATO và Ủy Ban Châu Âu), vẫn tỏ ra hung hăng trong cuộc đối đầu với Nga, Ukraina đã bị họ biến thành một con tin đắt giá ». Trump mềm mỏng với Nga, điện Kremlin không khoan nhượng: Châu Âu kẹt giữa hai làn đạn Chính sách của tổng thống Mỹ thúc đẩy đàm phán ngoại giao với Nga từng được coi là mang lại hy vọng cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina trong thời gian ông Trump mới lên cầm quyền, như ghi nhận của cựu đại sứ Jean de Gliniasty : « Chúng ta đang ở thời điểm giữa chừng của một cuộc vận động ngoại giao kiểu truyền thống, tức là ngoại giao “từng bước nhỏ”, giống như những gì chúng ta đã chứng kiến sau cuộc Chiến tranh Kippur tháng 10/1973 (liên quân Ai Cập và Syria tấn công Israel), khi ngoại trưởng Mỹ Kissinger đã phải đi đi lại lại khoảng 15 lần giữa Tel-Aviv, Jerusalem và Cairo, đi qua đi lại giữa các bên, và mỗi lần như vậy đều mang về những tiến bộ rất nhỏ, nhưng cuối cùng thì đã thành công. Và thực ra, người Mỹ cũng rất giỏi trong việc này, đó là một truyền thống ngoại giao của họ. Vì vậy, chúng ta đang trong một tiến trình ngoại giao “tàu con thoi” và “từng bước nhỏ”, và tôi cho rằng chúng ta có thể hy vọng rằng cuối cùng nỗ lực này sẽ đạt được kết quả. »  Cựu đại sứ Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu (2010-2015), tức nhân vật số hai của ngành ngoại giao Liên Âu, đã sớm cảnh báo về nguy cơ các nước châu Âu bị kẹt giữa hai làn đạn của Mỹ và của Nga, trong bối cảnh tổng thống Donald Trump rất có thể  sẽ có nhiều nhân nhượng với Matxcơva : « Điều gây phiền toái hơn cho tất cả chúng ta, những người châu Âu, là liệu Trump có nhượng bộ thêm Putin để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn quan trọng hơn hay không. Như quý vị biết, hầu hết những yêu cầu mà Putin đưa ra đều rất khó có thể dung hòa với quan điểm và lợi ích của châu Âu. Ví dụ như Ukraina trung lập và phi quân sự hóa, Ukraina không được gia nhập NATO, hay không có sự hiện diện của quân đội châu Âu tại Ukraina, châu Âu không tiếp tục viện trợ quân sự cho Ukraina, v.v. Vì vậy, chúng ta đang ở trong một tình thế mà nếu ông Trump nhượng bộ cho tổng thống Nga một hoặc một số yêu cầu nào đó, thì chúng ta — những người châu Âu — sẽ lâm vào thế khó. Chúng ta sẽ phải nói rằng chúng ta không đồng ý và không chấp nhận những đề xuất này, và như vậy, chúng ta sẽ bị coi là bên cản trở tiến trình đạt được thỏa thuận ngừng bắn, mở ra viễn cảnh gi

    10 min
  5. 4 SEPT.

    Đảm bảo an ninh Ukraina và bóng ma « Bị Vong Lục Budapest 1994 »

    Ngày 03/09/2025, tiếp đồng nhiệm Ukraina Volodymyr Zelensky, một ngày trước khi diễn ra hội nghị « Liên minh các nước tình nguyện », tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố, châu Âu « sẵn sàng cung cấp các bảo đảm an ninh cho Ukraina và người dân Ukraina vào ngày mà thỏa thuận hòa bình sẽ được ký kết ». Đây cũng là những gì Kiev muốn đạt được trước khi bước vào một cuộc đàm phán hòa bình (nếu có) với Matxcơva. Chưa có lúc nào nỗi ám ảnh về thất bại Bị Vong Lục Budapest 1994 mạnh mẽ như lúc này đối với Kiev và người dân Ukraina. Ngược dòng thời gian, vào ngày 05/12/1994, ba năm sau khi tuyên bố độc lập và dưới áp lực mạnh ngoại giao, Kiev cùng với Liên bang Nga, Hoa Kỳ và Anh Quốc ký kết Bị Vong Lục tại Budapest, Hungary. Nỗi lo nguy cơ phổ biến hạt nhân hơn là an ninh Ukraina Theo đó, Ukraina chấp nhận chuyển giao toàn bộ kho vũ khí hạt nhân được cất trữ trên lãnh thổ cho Nga, bao gồm khoảng 1.900 đầu đạn chiến lược và 2.500 vũ khí chiến thuật tức chiếm đến gần 10% kho vũ khí Xô Viết. Đổi lại, các bên tham gia cam kết « tôn trọng nền độc lập, quyền chủ quyền và các đường biên giới hiện hữu của Ukraina » và « tránh sử dụng hành động dọa dẫm hay dùng vũ lực xâm hại toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của Ukraina ». Ngoài ra, theo các hình ảnh và bài báo tư liệu được Viện Nghe Nhìn Quốc Gia Pháp (INA) trích dẫn ngày 09/03/2025, ngoài việc tăng gấp đôi số tiền viện trợ 155 triệu đô la, Hoa Kỳ còn cam kết cung cấp « hỗ trợ đặc biệt để tăng cường an ninh cho các lò phản ứng hạt nhân dân sự, kiểu Tchernobyl », và nhất là « mở rộng cánh cửa "đối tác vì hòa bình" cho Ukraina, nói một cách khác, cho phép Kiev phát triển hợp tác quân sự với NATO ». Nhà nghiên cứu Marie Dumoulin, giám đốc chương trình Wider Europe, thuộc tổ chức tư vấn European Council on Foreign Relations, trong chương trình « Sự ra đời và cái chết của Bị Vong Lục Budapest » do đài phát thanh France Culture thực hiện trong tháng 7/2025, có lưu ý rằng sự kiện diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ và Anh Quốc lo lắng cho mối họa phổ biến hạt nhân hơn là vấn đề an ninh của Kiev. Bởi vì, ngoài Ukraina, còn có hai nước thành viên Xô Viết khác cất trữ vũ khí hạt nhân là Belarus và Kazakhstan. « Có một cơ chế quốc tế quản lý các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân : Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân TNP. Nhưng các quốc gia độc lập mới này sinh ra từ đống đổ nát của Liên Xô lại không tham gia vào hiệp ước này, bởi vì, cho đến lúc đó, những nước này chưa tồn tại. Do vậy, thách thức đầu tiên là phải bảo đảm rằng Ukraina, Belarus và Kazakhstan, ba quốc gia cùng với Nga có triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình, tuân thủ Hiệp ước TNP (…) Nhưng điều quan trọng cần hiểu là đối với các nhà đàm phán Mỹ và Anh Quốc, thách thức chính vào thời điểm đó, không hẳn là vấn đề an ninh và chủ quyền lãnh thổ của ba nước này, mà thực sự là vấn đề không phổ biến hạt nhân, đồng thời bảo đảm rằng chỉ có một quốc gia kiểm soát vũ khí hạt nhân được thừa hưởng từ thời kỳ Xô Viết. » Hạt nhân và chủ quyền : Ukraina không có chọn lựa nào khác Chính vì điều này, vào tháng 12/1991, vào thời điểm Liên Xô tan rã, Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Bill Clinton đã nhìn nhận Nga như là một quốc gia hạt nhân, đồng thời tuyên bố sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho những nước khác xuất thân từ Liên Xô với điều kiện các nước này chấp nhận quy chế quốc gia không hạt nhân, theo như chuyên gia về Nga, bà Anne de Tinguy, giáo sư danh dự, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế CERI trường đại học Khoa học Chính trị Sciences Po từng giải thích với báo Libération (11/03/2022). Nhiều nhà quan sát tại Pháp đánh giá rằng với việc ký kết Bị Vong Lục Budapest, chính quyền Ukraina lúc bấy giờ đã chấp nhận từ bỏ vị thế « cường quốc hạt nhân đứng hàng thứ ba » trên thế giới (tính theo số lượng vũ khí hạt nhân). Đối với nhà ngoại giao Pierre Lévy, cựu đại sứ Pháp tại Nga (2020 – 2024), điều này là không hoàn toàn chính xác, do việc hệ thống kiểm soát và chỉ huy đều trú đóng tại Matxcơva. Vũ khí hạt nhân được bố trí tại Ukraina không đồng nghĩa với việc Kiev nắm giữ « nút bấm » hạt nhân. Chuyên gia Marie Dumoulin nhắc lại : « Việc từ bỏ kho vũ khí hạt nhân, trên thực tế, đó còn là một trong số các điều kiện cho quyền chủ quyền của Ukraina. Nếu như số vũ khí này vẫn còn được bố trí trên lãnh thổ Ukraina, điều đó cũng có nghĩa là Matxcơva có lẽ vẫn sẽ tiếp tục có một vai trò chủ đạo trong an ninh của Ukraina và do vậy, quyền tự quyết của Ukraina như chúng ta đã biết từ trước đến nay, có lẽ sẽ không thể được thực thi trong cùng những điều kiện. Đó chính là những gì đang diễn ra với Belarus, quốc gia đã chấp nhận để Nga bố trí vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa của động thái này đối với an ninh châu Âu, còn có những hậu quả tức thì cho quyền tự quyết của Belarus, hiển nhiên không còn giống như khi họ đã có thể từ chối quyền xem xét lại các quyết định của Matxcơva liên quan đến chủ quyền và an ninh của chính mình ». Bị Vong Lục Budapest : Những cam kết « ảo » ? Bất chấp những cam kết, hai mươi năm sau, năm 214, Matxcơva chiếm đoạt và cho sáp nhập bán đảo Crimée vào Nga, và thổi bùng cuộc xung đột ở Donbass. Không một bên ký kết Bị Vong Lục Budapest nào có những phản ứng thực sự. Đến năm 2022, Nga chính thức phát động « chiến dịch quân sự đặc biệt », xâm chiếm Ukraina. Ngày 04/03/2022, vào ngày thứ chín của cuộc chiến, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky cay đắng chỉ trích NATO từ chối lập vùng cấm bay : « Tất cả những gì Liên minh Quân sự làm được đến hiện tại, là vận chuyển khoảng 50 tấn dầu diesel cho Ukraina thông qua hệ thống cung cấp của khối. Có lẽ là để chúng ta có thể đốt bỏ và thiêu rụi Bị Vong Lục Budapest. Nhưng đối với chúng ta, văn bản này đã bị đốt cháy, dưới hỏa lực của quân đội Nga ». Về điểm này, nhà nghiên cứu Marie Dumoulin, cũng trong chương trình « Sự ra đời và cái chết của Bị Vong Lục » trên đài France Culture, giải thích thêm như sau : « Bị Vong Lục Budapest bao gồm một danh sách các cam kết của các quốc gia bảo lãnh, tức là Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, liên quan đến Ukraina, nhưng đây là những cam kết thụ động, nghĩa là các quốc gia này cam kết không làm một số điều nhất định liên quan đến Ukraina, không gây rắc rối về chủ quyền, độc lập và biên giới của Ukraina, không đe dọa sử dụng vũ lực, không gây áp lực kinh tế lên Ukraina và trong trường hợp Ukraina bị tấn công hạt nhân, họ cũng cam kết sẽ nhờ đến Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Không có cam kết chủ động nào, nghĩa là không có cam kết hành động nào khác ngoài cam kết tham vấn Hội đồng Bảo an nếu toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina bị đe dọa. » Cam kết bị xâm phạm : Lỗi tại ai ? Ngày nay, phương Tây và Nga đổ lỗi cho nhau là không tôn trọng các cam kết đưa ra trong văn bản. Hoa Kỳ và Anh Quốc tuyên bố họ không vi phạm các cam kết, rằng họ không đe dọa tính toàn vẹn lãnh thổ Ukraina. Và quốc gia duy nhất đã vi phạm các cam kết đưa ra chính là Nga. Điều thú vị, theo nhà cựu đại sứ Pháp Pierre Levy khi giải thích với France Culture là những lập luận từ phía Nga. « Câu trả lời mà Vladimir Putin dành cho Reuters vào tháng 3/2024 mà ít ai nói đến, và theo tôi là rất thú vị, trong đó, ông ấy nói rằng "Nhìn xem, quý vị đã vi phạm các cam kết của mình đưa ra trong Bị Vong Lục Budapest. Ông ấy nói rõ là ông ấy không bị ràng buộc bằng những thỏa thuận quốc tế với một quốc gia vừa có một cuộc cách mạng bên trong. Thế nên, trong cách tiếp cận của Nga, đối diện với họ là một quốc gia mới. Tiếp theo, chúng ta thấy rõ sự nhất quán trong lập trường, bởi vì, đối với Nga, có một chính quyền quân sự cầm quyền ở Kiev đã thành công lập một chế độ mới với sự trợ giúp của phương Tây sau một cuộc đảo chính. Do vậy tất cả những điều này đều nằm trong lô-gic của Nga ». N

    12 min
  6. 28 AOÛT

    Điểm lại lịch sử tranh đấu vì độc lập: Từ "20 năm bị xóa sổ" đến Nhà nước Palestine

    Cuộc chiến tranh tại dải Gaza giữa quân đội Israel và lực lượng Hamas, bùng lên sau vụ tấn công khủng bố của Hamas trên đất Israel khiến hơn một nghìn người chết, và hơn 250 người bị bắt làm con tin, đã kéo dài gần hai năm. Vùng lãnh thổ rộng hơn 40 km² của người Palestine bị tàn phá tan hoang, khiến hàng chục nghìn người chết, hàng trăm nghìn người bị thương, đa số dân cư phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Tuy nhiên, việc công nhận Nhà nước Palestine một lần nữa trở thành một vấn đề nóng bỏng của thời sự quốc tế. Nhiều nước châu Âu, tuyên bố công nhận Nhà nước Palestine. Nước Pháp dự kiến sẽ chính thức công nhận Palestine trong dịp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9/2025. Nhà nước Palestine là một trong những vấn đề chính trị quốc tế đương đại phức tạp bậc nhất. Tạp chí Tiêu điểm thời sự điểm lại một số diễn biến chính trong tiến trình tranh đấu vì một Nhà nước độc lập của người Palestine. Nghị quyết LHQ năm 1947 về hai Nhà nước, thế giới Ả Rập không công nhận Về vấn đề Nhà nước độc lập của người Palestine, ngày 29/11/1947 mà một cái mốc lịch sử. « Nghị quyết của ủy ban lâm thời của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Palestine đã được thông qua với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng. » Theo Nghị quyết 181 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, vùng lãnh thổ gọi là xứ Palestine, nằm dọc bờ biển đông Địa Trung Hải, phía bắc là Liban và phía nam là Ai Cập hiện nay, sẽ được chia thành hai Nhà nước, một Nhà nước của người Ả Rập và một của người Do Thái, và một khu vực do quốc tế kiểm soát, bao gồm các thánh địa như Jerusalem và thành Bethleem. Theo nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, nước Anh, quốc gia được Hội Quốc Liên – tiền thân của Liên Hiệp Quốc - giao trách nhiệm bảo trợ cho vùng đất này từ năm 1922, sau khi đế chế Ottoman giải thể, sẽ phải rút khỏi Palestine vào cuối năm 1948. Nghị quyết về hai Nhà nước liên quan đến vùng đất lịch sử Palestine được coi là một nguyên tắc pháp lý căn bản của Liên Hiệp Quốc về « vấn đề Palestine ». Năm 2000, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua nghị quyết 1397 tái khẳng định « giải pháp hai Nhà nước ». Tuy nhiên, nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc đã không được thực thi đầy đủ. Ngày 14/05/1948, Nhà nước Israel của người Do Thái chính thức ra đời. Nhưng đã không có một Nhà nước của người Ả Rập. Các đụng độ bùng phát dữ dội giữa các cộng đồng người Ả Rập cư trú lâu đời tại xứ Palestine, với người Do Thái, trong đó có rất nhiều người đến từ châu Âu, đặc biệt sau các cuộc diệt chủng người Do Thái của chế độ Đức Quốc xã. Ước tính từ khoảng 800.000 người đến hơn 1 triệu người Ả Rập tại Palestine đã phải rời bỏ quê hương trong biến cố được gọi là « Nakba », tiếng Ả Rập có nghĩa là đại thảm họa. Năm 2023, lần đầu tiên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chính thức tổ chức kỷ niệm thường niên biến cố « Nakba ». Cho đến nay, theo Liên Hiệp Quốc, có hơn 4 triệu người là người Palestine tị nạn sau biến cố Nakba, hoặc hậu duệ của họ. Thế giới Ả Rập không công nhận nhà nước Do Thái. Cuộc chiến tranh Ả Rập – Do Thái đầu tiên bùng nổ vào năm 1949. Sau cuộc chiến tranh này Jordanie kiểm soát vùng Cisjordanie và Đông Jerusalem, dải Gaza thuộc quyền kiểm soát của Ai Cập. Cũng năm này, Liên Hiệp Quốc công nhận Nhà nước Israel. Hai mươi năm « bị xóa sổ khỏi lịch sử » Nếu như trước khi Nhà nước Do Thái ra đời, các cộng đồng người Ả Rập Palestine từng có một vị thế nhất định, thì sau thời điểm này, người Palestine hoàn toàn « bị xóa sổ khỏi lịch sử », như ghi nhận của chuyên gia Jean-Paul Chagnollaud, giáo sư danh dự các trường Đại học, chủ tịch Viện nghiên cứu về vùng Trung Đông Địa Trung Hải (IREMMO) với đài France Culture : « Trong suốt 20 năm đó – từ 1949 đến cuộc chiến 1967 - có thể nói rằng người Palestine đã bị đẩy ra khỏi ‘‘lịch sử’’ hoặc bị xóa sổ khỏi lịch sử như người ta thường nói, và chủ nghĩa dân tộc Palestine – vốn đang hình thành - đã bị suy yếu nghiêm trọng. Những người mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa Palestine vào thời điểm đó chính là những người Palestine đã rời khỏi vùng đất nơi Nhà nước Israel được thành lập. Đó là những người tị nạn, những người sẽ đến Liban, đến Jordanie. Có rất nhiều người tị nạn ở Jordanie. Họ cũng đến dải Gaza, nơi đang nằm dưới sự quản lý của Ai Cập của thời điểm đó. Điều này khiến dân số dải Gaza vào những năm 1949 - 1950 gồm đến 90% là người tị nạn, tức là những người có quê hương tại các vùng đất ở Palestine, cách đó chỉ 10, 30, 50, 100 km, tức rất gần, vì Gaza là một vùng lãnh thổ rất nhỏ, chỉ bằng hai, ba tỉnh của nước Pháp. Như vậy là người Palestine biến mất và trên bình diện quốc tế, người ta chỉ còn nói đến ‘‘vấn đề người tị nạn’’. Người ta thậm chí không còn dùng đến từ “Palestine” nữa. Để lấy một ví dụ cụ thể, có thể dễ dàng kiểm chứng về mặt pháp lý : Đó là nghị quyết đầu tiên sau cuộc chiến tranh năm 1967, nghị quyết 242 tháng 11/1967. Đây là một nghị quyết quan trọng, nghị quyết đầu tiên sau cuộc chiến năm 1967. Nghị quyết này nói rằng các lãnh thổ đã chiếm đoạt phải được trả lại cho các quốc gia, và khi nói về người tị nạn, thì chỉ có một dòng về họ. Người ta thậm chí không dùng từ “Palestine”, mà chỉ yêu cầu có ‘‘một giải pháp công bằng’’, chỉ một dòng đó mà thôi (un juste règlement du problème des réfugiés). Nói cách khác, người Palestine đã biến mất. » Tổ chức Giải phóng Palestine ra đời dưới quyền kiểm soát của Ai Cập Tổ chức Giải phóng Palestine PLO được thành lập chính thức vào năm 1964. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, tổ chức mang tôn chỉ giải phóng Palestine phục vụ trước hết cho quyền lợi của một số thế lực Ả Rập trong khu vực, đặc biệt là nước Ai Cập của Nasser (một cường quốc trong khu vực, đặc biệt sau cuộc chiến thắng lợi trước liên minh Anh, Pháp và Israel nhằm kiểm soát kênh đào Suez năm 1956), và vương quốc Jordanie, kiểm soát vùng Cisjordanie của người Palestine. Chuyên gia Jean-Paul Chagnollaud nhận định : « Lãnh đạo Palestine Arafat, với việc thành lập tổ chức Fatah (phong trào giải phóng dân tộc Palestine) năm 1959, đã xuất hiện trong bối cảnh đó, một bối cảnh bị chi phối bởi lãnh đạo Ai Cập Nasser. Còn người dân vùng Cisjordanie bị chi phối bởi quan điểm chính thống về dân tộc Jordan, với những gia tộc lớn gần gũi với hoàng gia Jordanie, các thế lực kiểm soát các thành phố Cisjordanie. Trong toàn bộ giai đoạn này, việc khẳng định tinh thần dân tộc Palestine là điều gần như bất khả thi. Làm sao có thể làm cho người Palestine cảm thấy mình là một dân tộc đang hình thành sau tất cả những sự kiện đã làm cho họ bị phân mảnh, tan tác, bị đập nát theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tổ chức Giải phóng Palestine PLO được thành lập năm 1964. PLO được thành lập bởi ai ? Trong tổ chức này có người Palestine, nhưng PLO là do lãnh đạo Ai Cập Nasser lập ra, với sự ủng hộ của vua Jordanie Hussein. Tại sao họ lại thành lập PLO vào thời điểm đó ? Bởi vì họ biết rằng thực sự có một phong trào dân tộc đang manh nha, đang được xây dựng, đang định hình, đó là phong trào dân tộc chủ nghĩa Fatah, do Arafat lãnh đạo, từ đầu những năm 1960. Nasser không thể để mình bị vượt mặt. Và vì vậy, cần phải kiểm soát. Vậy làm sao để kiểm soát ? Bằng cách thành lập một tổ chức, Tổ chức Giải phóng Palestine, với sứ mệnh lúc đó là xác lập sự thống nhất của các nước Ả Rập, trước khi lo chuyện Palestine. Khối Ả Rập thống nhất sẽ cho phép giải phóng Palestine, đó là cách người ta nói vào thời điểm đó. Trong kịch bản đó, PLO không phải là của người Palestine, mặc dù người đứng đầu PLO là Ahmad Shukeiri. Ông ấy là một người Palestine, nhưng là một người Palestine làm bình phong cho Nasser. Nhân vật này từng làm việc tại Liên đoàn Ả Rập với Nasser. Lập ra PLO thực sự là

    10 min
  7. 21 AOÛT

    Từ Nixon đến Trump: Hai thời đại, cùng chiến lược

    Ngày 27/07/2025, Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu đã ký kết một thỏa thuận thương mại, dự trù áp thuế 15% với hàng nhập khẩu của Liên Âu vào Mỹ . Chính sách kinh tế quyết liệt này của chính quyền Trump gợi nhắc đến chính sách của Richard Nixon, tổng thống Mỹ từ năm 1969 đến năm 1974. Giống như người tiền nhiệm, Donald Trump sử dụng kinh tế như một công cụ đàm phán để áp đặt các lựa chọn ngoại giao và thương mại. Sự việc bắt đầu vào một ngày Chủ Nhật 15/08/1971, vào lúc các sàn chứng khoán đóng cửa, tổng thống Richard Nixon bất ngờ thông báo « tạm thời » chấm dứt thỏa thuận Bretton Woods ký kết năm 1944, và tuyên bố áp thuế 10% đối với tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, chủ yếu nhắm vào Đức và Nhật Bản, đang trên đà trỗi dậy. Quyết định này đã gây ra điều mà người ta gọi là « cú sốc Nixon ». 1944 : Thỏa thuận Bretton Woods Để hiểu được hành động của Richard Nixon, cần phải xem xét lại bối cảnh tiền tệ vào thời điểm trước và trong những năm 1940. Tháng 7/1944, Hoa Kỳ cùng với 44 nước đồng minh kinh tế họp tại khách sạn Mount Washington, thành phố Bretton Woods, bang New Hampshire, để chuẩn bị những nền tảng cơ bản cho hệ thống kinh tế toàn cầu. Theo như giải thích của giáo sư kinh tế Sébastien Jean, trường Conservatoire National des Arts et Metiers, trong một chương trình của tuần báo Pháp L’Express, « Tại hội nghị này, những nền tảng sắp xếp, tổ chức các mối quan hệ kinh tế quốc tế thời hậu chiến đã được đặt ra với ba trụ cột : thứ nhất là tài chính – hệ thống tiền tệ, thứ hai là viện trợ cho phát triển với việc thành lập Ngân hàng Thế giới và thứ ba là thương mại, phức tạp hơn một chút, nhưng sau đó, vào năm 1947, được thể hiện qua GATT (General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch), một hiệp định sau này cho ra đời WTO – Tổ chức Thương mại Thế giới. » Cũng theo giáo sư Sebastien Jean, trong thỏa thuận này, điều đáng chú ý nhất là các nước tham gia hội nghị quyết định áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái cố định mới dựa vào đồng đô la thay cho cơ chế bản vị vàng, vốn dĩ xác định giá trị các loại tiền tệ dựa theo vàng. « Đồng đô la vẫn sẽ giữ được khả năng chuyển đổi tự do sang vàng. Điều này là khả thi bởi vì trong thời kỳ chiến tranh, do Hoa Kỳ cung ứng cho các nước và bắt họ thanh toán bằng vàng, vì vậy vào thời điểm đó, Mỹ nắm giữ hơn hai phần ba dự trữ vàng của thế giới. Do đó, họ có rất nhiều vàng và có đủ sức thuyết phục để tuyên bố "Chúng tôi muốn đồng tiền của chúng tôi và giá trị của chúng được xác định bằng vàng", bởi vì vào thời điểm đó, vàng được coi là sự đảm bảo tối thượng. Nhưng đô la là đồng tiền duy nhất trong tình huống này. » Bretton Woods và những hạn chế Nhưng hệ thống tiền tệ mới này bắt đầu cho thấy có những hạn chế. Mỹ và đồng đô la phải đối mặt với những « mệnh lệnh đầy mâu thuẫn ». Thứ nhất, khi biến đô la thành đồng tiền dự trữ và được neo theo vàng, Hoa Kỳ trở thành nguồn cung cấp đô la chính cho toàn thế giới : Đô la vừa là tài sản dự trữ quốc tế, vừa là tài sản giao dịch. Hệ quả, theo giáo sư Sebastien Jean, là Mỹ « phải cho lưu hành rất nhiều đô la bởi vì phải có thanh khoản trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Và để có thanh khoản, Mỹ phải đi vay : Một đô la lưu hành tương đương với một chứng khoán nợ do Ngân hàng Trung ương Mỹ phát hành, giống như bất kỳ loại tiền tệ nào. » Cùng lúc, Hoa Kỳ phải đối mặt với mệnh lệnh mâu thuẫn thứ hai : Cơ chế neo đồng đô la với vàng. « Để việc neo giá này trở nên đáng tin cậy, để cho giá trị đồng đô la có uy tín trên thế giới, Mỹ không được vay nợ quá mức. Bởi vì mỗi khi mắc nợ, Hoa Kỳ lại phát hành đồng đô la mà họ cho là có một giá trị cố định bằng vàng. Nhưng càng phát hành nhiều, độ tin cậy của đô la càng giảm. » Chỉ có điều, vào cuối những năm 1960, những khoản chi cho cuộc chiến ở Việt Nam khiến tình trạng thâm hụt ngân sách Mỹ ngày càng nặng. Điều này làm dấy lên mối ngờ vực từ nhiều nước về độ tin cậy của khả năng tự do quy đổi đô la thành vàng, trong khi Hoa Kỳ cảm thấy bị bó buộc, bởi vì họ muốn vay nợ nhiều hơn để tài trợ cho cuộc chiến, nhưng lại không thể thực hiện mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định của hệ thống tiền tệ, theo như nhận định của giáo sư Sebastien Jean. Trả lời tuần báo Pháp L’Express, ông giải thích : « Như thông lệ trên thị trường tài chính, có thể có những dự báo được thực hiện (tự chứng dự báo), nghĩa là nếu một số tác nhân bắt đầu nghi ngờ giá trị đồng đô la, về khả năng chuyển đổi tự do thành vàng, thì vào lúc đó, tất cả những ai giữ đô la đều sẽ muốn đổi đô la ra vàng và như vậy, họ phá hủy độ tín nhiệm của đồng đô la và điều đó có nguy cơ dẫn đến phản ứng dây chuyền, kết thúc nhanh chóng một cách thảm khốc ». Đây chính là điều Pháp đã thực hiện. Tháng 8/1971, Paris đã cho quy đổi một lượng lớn đô la dự trữ thành vàng, đưa lượng lớn vàng dự trữ từ Mỹ về nước. Hệ quả là lượng vàng dự trữ của Hoa Kỳ sụt giảm mạnh : từ mức 2/3 dự trữ thế giới vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến, đến năm 1970 rớt xuống còn 1/6. Mỹ không còn vị thế như xưa để có thể tác động đến cơ cấu hệ thống tiền tệ thế giới. Chính trong bối cảnh bất định này, Hoa Kỳ còn phải đối mặt với một sự cạnh tranh kinh tế khốc liệt với châu Á và châu Âu, những điều kiện tạo nên chiến thắng lợi của ông Richard Nixon, ứng viên đảng Cộng Hòa, trong bầu cử năm 1969. Giáo sư kinh tế Sebastien Jean cho biết : « Vào thời kỳ đó, Hoa Kỳ đương nhiên vẫn là một đại cường về kinh tế, đi đầu về công nghệ. Nhưng đó cũng là thời điểm các nước châu Âu cũng như Nhật Bản, không những đã kết thúc giai đoạn tái thiết đất nước mà còn bắt kịp về cơ bản sự chậm trễ về công nghệ đối với Mỹ. Những nước này có sức tăng trưởng rất nhanh, được giữ vững từ năm 1945. Họ chưa bắt kịp nhưng đã lấp được phần lớn cách biệt với Mỹ đến mức trở thành những cường quốc kinh tế, thương mại, công nghệ, những đối thủ cạnh tranh với Mỹ, điều chưa từng có trong quá khứ ». Cùng một phương pháp Chủ Nhật, ngày 15/08/1971, tổng thống Mỹ Nixon thông báo tạm dừng khả năng quy đổi tự do đô la thành vàng với hiệu lực tức thì. Như vậy, Hoa Kỳ đã có thể in tiền và bơm chúng vào nền kinh tế mà không cần tăng lượng vàng dự trữ. Thông báo này gây chấn động thị trường thế giới. Ngày hôm sau, 16/08/1971, ngay khi thị trường mở cửa, cam kết chuyển đổi đô la sang vàng ở mức 32 đô la/ounce đã bị Hoa Kỳ đình chỉ « tạm thời ». Nhưng trên thực tế, cam kết này sẽ không bao giờ được khôi phục. Richard Nixon : « Tôi chỉ thị cho bộ trưởng Tài Chính tạm dừng cơ chế chuyển đổi đô la sang vàng hay bất kỳ tài sản dự trữ nào khác, ngoại trừ các điều kiện được ấn định vì lợi ích của việc ổn định tiền tệ và vì lợi ích tốt nhất cho nước Mỹ. » Cùng một lúc, tổng thống Nixon tuyên bố áp thuế 10% đối với tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ. Đây là một cách để ông hạ giá đồng đô la một cách giả tạo và tạo ra ngoại hối, cho phép « vực dậy nền kinh tế Mỹ và đồng đô la, để trả lại cho Mỹ vị thế nền kinh tế hàng đầu thế giới ». Quyết định đơn phương này của chính quyền Nixon, đương nhiên đã bị nhiều nước phản đối và đưa ra các biện pháp trả đũa, nhưng lại khá rời rạc và có phần hạn chế. Sự việc cũng đã mở ra một thời kỳ bất ổn kinh tế và những căng thẳng cho các mối quan hệ quốc tế. Giới truyền thông lúc bấy giờ gọi chính sách này của Mỹ là « Nixon Round ». Các hình ảnh tư liệu của Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA) cho thấy rõ lập trường và ý định của Mỹ muốn buộc các cường quốc kinh tế mới nổi (Nhật Bản, Cộng Hòa Liên Bang Đức và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu), phải trả giá. Đó là những nước,

    12 min
  8. 14 AOÛT

    Vì sao Trump hủy hoại WTO, định chế từng giúp Mỹ thịnh vượng ?

    Năm 2025, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO/OMC) kỷ niệm 30 năm ra đời trong bối cảnh tổng thống Mỹ Donald Trump hủy hoại hàng loạt luật chơi của định chế này. Định chế quốc tế, từng do Hoa Kỳ thúc đẩy để đóng vai trò « trọng tài » hay « cảnh sát thương mại quốc tế », giờ đây dường như bất lực đứng nhìn các thiệt hại do cuộc chiến thuế quan mà Trump phát động. Vì sao Trump chống lại định chế vốn tạo điều kiện cho sự thịnh vượng của Mỹ ? Trước hết xin trở lại cội nguồn lịch sử của định chế thương mại lớn nhất hành tinh. Ngày 15/04/1994, tại Marrakech, Maroc, đại diện của 128 quốc gia đã nhất trí lập một tổ chức quốc tế về tham vấn và trọng tài nhằm đảm bảo tự do lưu thông hàng hóa trên toàn thế giới, cũng như thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Tổ chức Thương mại Thế giới chính thức được thành lập ngày 01/01/1995 tại Geneva, Thụy Sĩ, tại chính trụ sở của Ban thư ký GATT (tức Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại), một cơ quan không chính thức có sứ mạng cắt giảm thuế hải quan trên toàn thế giới, hoạt động từ năm 1947. WTO, định chế quốc tế duy nhất Mỹ chấp nhận thẩm quyền « siêu quốc gia » Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại GATT ra đời sau Đệ nhị Thế chiến, theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh, nhằm điều hòa chính sách thuế quan giữa các nước, không để thương mại trở thành công cụ thống trị về kinh tế, có thể dẫn đến xung đột. Hiệp định được sửa đổi nhiều lần qua nhiều vòng đàm phán, trước khi có được một cơ quan có tư cách pháp nhân chính thức, với thỏa thuận Marrakesh năm 1994, dẫn đến sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới. Từ chỗ chỉ có hơn 20 thành viên tham gia Hiệp định GATT, cho đến nay WTO đã thu hút hơn 160 thành viên, chiếm 98% tổng trọng lượng thương mại toàn cầu. Một thành tích rõ rệt nhất thường được nêu là mức thuế hải quan đối với hàng hóa đã giảm trung bình từ 40%, thời sau Thế chiến Hai, xuống còn 6% hiện nay. Liên Hiệp Châu Âu ra đời năm 1993, và đồng tiền chung châu Âu được xác lập năm 2000, sự phát triển đột biến của kinh tế Trung Quốc, Bắc Kinh gia nhập WTO từ 2000… Giai đoạn tự do mậu dịch chưa từng có đi kèm với thịnh vượng chưa từng có với nhân loại cũng là thời kỳ nước Mỹ là siêu cường duy nhất. WTO mang lại nhiều điều cho thế giới, nhưng định chế này đặc biệt có lợi cho Mỹ. Ông Pascal Lamy, cựu tổng giám đốc WTO (2005 - 2013), cựu ủy viên Môi trường Ủy Ban Châu Âu, nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của WTO với Mỹ : « Họ đã xây dựng một hệ thống mà họ nghĩ là tốt cho họ, bởi vì chủ nghĩa tư bản cần đến các quy tắc và sự minh bạch để hoạt động. Đó là lý do tại sao vào năm 1994, với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ đã chấp nhận thành lập một cơ chế phán xử quốc tế có khả năng áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với thành viên nào vi phạm các quy tắc thương mại chung. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất mà Hoa Kỳ chấp nhận một liều lượng siêu quốc gia, nghĩa là một hệ thống pháp lý không phải của Mỹ, nhưng có thẩm quyền cưỡng chế với nước Mỹ » (bài « Pascal Lamy : ‘‘Les Etats-Unis tentent de démolir un monde qu’ils ont conçu’’ » [Nước Mỹ đang cố gắng phá hủy một thế giới mà họ đã thiết kế], tuần báo Le Nouvel Obs, ngày 12/05/2025). « Đóng góp đặc biệt cho sự ổn định kinh tế toàn cầu » Tự do mậu dịch có nghĩa là mở cửa các thị trường, và điều này diễn ra trong bối cảnh kinh tế Mỹ ở thế thượng phong. Trong thập niên 1990, đầu những năm 2000, WTO được coi là một công cụ chiến lược với Mỹ để mở cửa các thị trường nước ngoài ở các lĩnh vực mà nền kinh tế Mỹ thống trị, hay có tính cạnh tranh cao như công nghệ tiên tiến, dịch vụ tài chính, sở hữu trí tuệ… và tiếp tục duy trì các biện pháp bảo hộ đối với một số lĩnh vực nhạy cảm trong nước, như thép, dệt may, nông nghiệp cơ bản (theo báo cáo năm 2007 về Hệ thống Giải quyết Tranh chấp của WTO có lợi cho nước Mỹ [WTO Trade Rules Benefit the United States, Says New Council Report], của giáo sư Robert Z. Lawrence - Đại học Harvard, Viện tư vấn chính sách đối ngoại Mỹ Council on Foreign Relations / CFR đăng tải). Báo cáo của nguyên thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế của tổng thống Mỹ nhấn mạnh đến một vấn đề đã trở nên nhạy cảm với nước Mỹ ngay từ thời điểm đó, khi nhiều nhà hoạch định chính sách và nhà lập pháp Mỹ bắt đầu chỉ trích mạnh mẽ Cơ chế Giải quyết Tranh chấp (Dispute Settlement Body - DSB) của WTO, thay vì bảo vệ. Cho dù hệ thống này đã và có thể giúp « giảm nhu cầu Mỹ phải sử dụng các biện pháp trả đũa đơn phương, hạn chế một nguồn căng thẳng quan trọng giữa Mỹ và các đối tác ». « Giải quyết tranh chấp là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương và là đóng góp chưa từng có của WTO vào sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu » (theo WTO). Hệ thống Giải quyết Tranh chấp của WTO, từ khi ra đời định chế này đã giải quyết hơn 600 vụ kiện tụng về thương mại, thông qua cơ chế xem xét tranh chấp ở cấp sơ thẩm (tại Ban hội thẩm) và cấp phúc thẩm (tức Appellate Body). Phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm, theo phương thức trọng tài, có tính chung thẩm. Cơ quan Phúc thẩm AB gồm bảy thành viên do Cơ quan Giải quyết Tranh chấp DSB, bổ nhiệm với nhiệm kỳ bốn năm và có thể được bầu lại một lần, gồm những chuyên gia có uy tín và chuyên môn cao trong lĩnh vực pháp luật thương mại quốc tế. Định chế WTO : Từ nguồn lợi của Mỹ trở thành tội đồ Tuy nhiên, hơn 20 năm sau khi WTO ra đời, nước Mỹ thời Donald Trump khẳng định thái độ mất tin tưởng hoàn toàn đối với Tổ chức Thương mại Thế giới. Washington coi WTO hoạt động chậm chạp, can thiệp thô bạo về mặt pháp lý và không đủ năng lực để xử lý các vấn đề địa - chính trị hiện đại, đặc biệt là liên quan đến Trung Quốc, bị Mỹ và nhiều đồng minh cáo buộc là cạnh tranh bất chính trong các lĩnh vực chiến lược, với các trợ cấp ồ ạt cho doanh nghiệp nhà nước, ép buộc doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ… Năm 2018, chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ nhất khởi động cuộc chiến thuế quan, đơn phương đánh thuế hàng trăm tỉ đô hàng nhập từ Trung Quốc. Bắc Kinh khởi kiện. Tháng 9/2020, cơ quan phân xử tranh chấp của WTO ra phán quyết về việc Mỹ áp đặt thuế « mang tính kỳ thị và thái quá », vi phạm các quy định thương mại quốc tế. Đại diện Thương mại Mỹ lúc đó, Robert Lighthizer, đón nhận lạnh nhạt với tuyên bố : « Điều này khẳng định những gì chính quyền Trump đã nói từ bốn năm nay. Đó là WTO hoàn toàn không đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động có hại của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ. » Rời bỏ các quy tắc quốc tế của WTO để « trở về » với « logic của kẻ mạnh » Vào thời điểm cuộc chiến thuế quan chống Trung Quốc lần thứ nhất bùng lên, nhiều chuyên gia như cựu tổng giám đốc WTO Pascal Lamy chưa hiểu rõ phe cầm quyền tại Mỹ muốn gì. Cựu tổng giám đốc WTO băn khoăn : « Hoa Kỳ vẫn chưa nói rõ vấn đề mà họ muốn là gì. Liệu có phải vì các trọng tài viên chưa đưa ra quyết định đúng đắn theo quan điểm của họ, hay vì họ phản đối cơ chế trọng tài siêu quốc gia này ? ». « Liệu việc Washington ngăn chặn bổ nhiệm thẩm phán của cơ quan trọng tài giải quyết tranh chấp của WTO, khiến hệ thống bị tê liệt, có phải là một chiến thuật nhằm thiết lập lại các quy tắc thương mại toàn cầu và buộc Trung Quốc phải nhượng bộ, hay đánh dấu sự kết thúc của chủ nghĩa đa phương (multilateralism), điều mà người Mỹ không còn đồng cảm nữa ? » (trích Le Monde, ngày 10/12/2019). Đọc thêm - Pascal Lamy : ''WTO cần tiếp tục tồn tại, cho dù không có Donald Trump'' Năm nay, khi Trump trở lại nắm quyền, tình hình đã hoàn toàn rõ. Phe cầm quyền của Donald Trump tại Mỹ không chỉ coi Trung Quốc là đích ngắm, trong ngày 02/04/2025, « Ngày Giải phóng nước Mỹ », Donald Trump tuyên bố đơn phương đánh « thuế đối ứng

    10 min

À propos

Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI

Plus de contenus par RFI Tiếng Việt

Vous aimeriez peut‑être aussi