Tạp chí âm nhạc

Góc vườn âm nhạc của RFI

  1. 10 HR AGO

    Nhạc Nhật lời Việt : "Dancin’ All Night" và bản phóng tác "Bên nhau đêm này"

    « Dancin' All Night » (nguyên tác tiếng Nhật Danshingu Ooru Naito) là một ca khúc nhạc trẻ sôi động rất nổi tiếng cách đây 4 thập niên của ban nhạc rock người Nhật Monta & Brothers. Bài hát này từng được tác giả Anh Tài chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm với tựa đề « Bên nhau đêm này ». Thành danh tại Nhật Bản vào đầu những năm 1980, ban nhạc rock Monta & Brothers do nghệ sĩ Yoshinori Monta sáng lập. Bản hit đầu tay « Dancin' All Night » của họ đã bán được hơn 2 triệu bản chỉ riêng tại Nhật Bản và sau đó được phát hành rộng rãi trên thị trường châu Á, đặc biệt là tại Hồng Kông, Đài Loan và Singapore. Giọng hát trầm khàn của Yoshinori Monta (1951-2023) khi mới nghe lần đầu có phần hơi phản cảm, nhưng với thời gian, bài hát này lại trở nên rất quen thuộc với công chúng, nếu không nói là kinh điển trong mắt người hâm mộ. Tên thật là Yoshinori Kadota, ông Monta sinh trưởng trong một gia đình khiêm tốn, nguyên quán ở Honshu thuộc tỉnh Hyogo, miền trung nam Nhật Bản. Thời niên thiếu, khi còn đi học tại trường trung học Kobe, ông khám phá nhạc pop rock Anh-Mỹ,  trở thành một người hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Tứ Quái The Beatles. Cũng từ đó, ông nuôi mộng thành lập một ban nhạc trẻ chủ yếu chơi nhạc rock. Bất chấp lời khuyên của gia đình, ông  quyết định bỏ học trước khi thi tú tài và chọn nghề biểu diễn tại vùng Kansai vào cuối những năm 1960. Sự nghiệp âm nhạc của Monta khởi đầu trong gian nan. Ông tham gia vào nhiều ban nhạc, nhưng không có nhóm nào trụ lại được lâu. Monta quyết định tách ra riêng, ghi âm solo kể từ năm 1971. Tuy nhiên, sau gần một thập niên không có bản nhạc ăn khách nào, Monta nản chí, hầu như đành phải chấp nhận bỏ cuộc. Khi vào phòng thu thanh đầu năm 1980, có thể nói, ông Monta nghĩ rằng cơ hội này giống như ván bài cuối cùng của một tay chơi cờ bạc. Nhân dịp này, ông thành lập ban nhạc Monta & Brothers và cùng với nhóm thử ghi âm nhạc phẩm « Dancin' All Night » do ông soạn nhạc và do Keiji Mizutani viết lời. Tưởng chừng không còn hy vọng, nào ngờ bản nhạc này lại lập kỷ lục số bán khi được phát hành vào mùa xuân năm 1980. Ban đầu lọt vào bảng xếp hạng ở hạng 19, bài hát này sau đó đã nhảy vọt lên vị trí quán quân và ngự trị ở đầu bảng, trong 10 tuần liên tục. Ban nhạc Monta & Brothers gặt hái thêm nhiều thành công lớn nhân các buổi lễ trao giải thưởng âm nhạc của Nhật Bản, « Dancin' All Night » trở thành một trong những ca khúc được biểu diễn thường xuyên trong các phòng trà, hộp đêm tại Nhật Bản. Mặc dù ban nhạc đã tan rã vài năm sau, nhưng Monta vẫn tiếp tục sự nghiệp ghi âm solo và đi biểu diễn với các nhóm nhạc khác chủ yếu ở Kobe và Osaka. Vào mùa thu năm 2023, ông qua đời sau khi lâm bạo bệnh, hưởng thọ 72 tuổi. Bài hát « Dancin' All Night » cũng được các đài phát thanh vùng Kansai bình chọn là một trong những ca khúc tiêu biểu của làng nhạc pop rock Nhật Bản những năm 1980. Dù là fan của The Beatles, nhưng lối sáng tác bài hát « Dancin' All Night » vẫn đậm chất rock nhiều hơn là pop, dung hòa ảnh hưởng của hai nhóm Deep Purple cũng như của Santana. Khi chinh phục thị trường châu Á, « Dancin' All Night » trở nên nổi tiếng nhờ được đặt thêm nhiều lời khác nhau, trong đó có phiên bản tiếng Hoa của nữ ca sĩ người Đài Loan Thôi Thái Tĩnh và nam ca sĩ người gốc Mã Lai Vu Khải Hiền. Còn trong tiếng Việt, bài này được tác giả Anh Tài chuyển thành nhạc phẩm « Bên nhau đêm này » do nhiều nghệ sĩ ghi âm lại. Một khi được phóng tác sang tiếng Việt, «Dancin' All Nigt » nhờ vào các bản hòa âm theo nhịp điệu cha cha, lại trở thành tiêu biểu cho dòng nhạc khiêu vũ, dưới ánh đèn màu những giai điệu, lung linh trong đêm huyền diệu.

    9 min
  2. 13 SEPT

    Nhạc ngoại lời Việt : « La Tendresse » ban đầu được viết cho ai ?

    Ngoài là ca sĩ chuyên nghiệp, Patricia Carli còn là một tác giả quan trọng trong làng nhạc Pháp những năm 1970. Ngòi bút này từng sáng tác cho Nicoletta nhạc phẩm« Je n'pourrai jamais t'oublier » (Mưa trên biển vắng) hay bản ghi âm của Chistian de Lagrange « Sans toi je suis seul » (Mất em đời hoang vắng). Tên tuổi của bà còn gắn liền với giai điệu « La Tendresse » dịu dàng trầm lắng. Nhiều người yêu nhạc thường hay nhầm lẫn nhạc phẩm « La Tendresse » của Patricia Carli với bài hát cùng tên của Hubert Giraud viết cho Bourvil. Đôi khi cũng có sự nhầm lẫn về hai bản nhạc cùng tên « Sans toi je suis seul » (Mất em đời hoang vắng). Bài của Art Sullivan hát ở điệu si trưởng, còn phiên bản của Chistian Delagrange được hát ở điệu mi thứ. Trở lại với nhạc phẩm « La Tendresse » của Patricia Carli, bài hát này thành công vang dội vào năm 1972 qua bản ghi âm đầu tiên của Daniel Guichard. Trong làng nhạc Pháp, Daniel Guichard (sinh năm 1948) có một con đường sự nghiệp rất khác với nhiều nghệ sĩ cùng thời. Xuất thân từ một gia đình nghèo bố người Pháp, mẹ gốc Ba Lan, anh được tuyển làm nhân viên bốc hàng thời còn rất trẻ tuổi, ban ngày anh làm việc tại kho lưu trữ của hãng đĩa Barclay, ban đêm anh đi hát tại các quán nhạc phòng trà. Cho đến khi giọng ca của anh lọt vào tai của một nhà sản xuất, thì lúc bấy giờ, anh mới ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa Barclay.  Ngoài thành công bước đầu với sáng tác của Patricia Carli, Daniel Guichard sau đó còn nhận được sự giúp đỡ của nam danh ca Christophe, từng viết cho Daniel nhạc phẩm « Faut pas pleurer comme ça » (Đừng khóc nhiều như thế). Vào năm 1974, Daniel lúc bấy giờ mới 25 tuổi, ghi âm lại bản nhạc « Mon vieux » (Cha tôi) của nam danh ca Jean Ferrat, sửa vài lời ca sao cho hợp với hoàn cảnh của gia đình anh. Bản nhạc này lập kỷ lục số bán vào mùa hè năm 1974, với chủ đề tình phụ tử chứ không nói về chuyện tình cảm riêng tư. Từ đó trở đi, Daniel Guichard xây dựng hình ảnh của một giọng ca trầm đầy nam tính, không chỉ hát nhạc tình mà còn những vấn đề xã hội, quan hệ trong gia đình.  Với hơn 23 album phòng thu trong hơn 4 thập niên sự nghiệp ghi âm, Daniel Guichard đã khẳng định mình là một trong những nghệ sĩ quang trọn nhất trong những thập niên 1970-1990. Có thể nói con đường âm nhạc của Daniel đi cùng một hướng với Michek Delpech và nhất là Michel Sardou, nhưng anh lại trở thành một nghệ sĩ độc lập (tự sản xuất) chứ không lệ thuộc vào bất cứ hãng đĩa nào. Tuy nhiên, có một điều mà ít ai được biết : Daniel Guichard thành danh với nhạc phẩm « La Tendresse », nhưng đó lại là một thành công bất ngờ, ngoài dự kiến. Theo lời của tác giả Patricia Carli, khi chấp bút sáng tác nhạc phẩm « La Tendresse », bà ban đầu nghĩ tới Mireille Mathieu. Đôi bên đã nhiều lần hợp tác với nhau, và trong giai đoạn những năm 1970-1973, bà đã viết khoảng 10 ca khúc ăn khách cho nữ danh ca người Pháp. Thế nhưng, đến khi gửi sáng tác mới (bài La Tendresse), bản nhạc này lại bị ông Johnny Stark, nhà quản lý của Mireille Mathieu từ chối. Lúc bấy giờ, tác giả mới thuyết phục Daniel Guichard ghi âm, nhưng phải chỉnh sửa lại một số ca từ vì bản nhạc ban đầu được viết từ góc nhìn của một người phụ nữ. Có một chi tiết khá thú vị khác là sau khi bản nhạc thành công rực rỡ trên thị trường Pháp, Mireille Mathieu mới quyết định ghi âm một phiên bản mới dưới dạng song ca của bài « La Tendresse » cho một show truyền hình của Maritie và Gilbert Carpentier. Nghệ sĩ được mời hát chung với Mireille Mathieu thời bấy giờ không ai nào khác, ngoài Julio Iglesias, ông hoàng nhạc tình La Tinh. Bản thân Julio Iglesias cũng đã ghi âm lại bài này vào năm 1978 với tựa đề « El Amor / O Amor » trong hai thứ tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Còn trong tiếng Việt, ca sĩ kiêm tác giả Duy Quang khi ghi âm lại bài này với danh ca Ngọc Lan, chủ yếu đặt thêm lời Việt theo bản phóng tác tiếng Tây Ban Nha, ca từ nói nhiều về tình yêu hơn là sự trìu mến âu yếm như trong nguyên tác tiếng Pháp.  Nhạc phẩm « La Tendresse » hiểu theo ngữ cảnh là khi ta không còn yêu, thì tình vẫn còn nghĩa. Cho dù ngọn lửa đam mê ban đầu đã dập tắt nhưng dòng nước con tim vẫn ngập bờ đôi mi, cho lời thì thầm bao « âu yếm », cho ánh mắt thêm « trìu mến », vì nghĩa tình vẫn chưa quên.

    9 min
  3. 6 SEPT

    Nhạc Pháp lời Việt : Claude François và giai thoại nhạc phẩm « Cuộc tình tàn »

    Mặc dù đã qua đời do tai nạn từ hơn 4 thập niên nay, nhưng Claude François cũng như Joe Dassin và Dalida là những giọng ca tiếp tục thành công sau ngày khuất bóng. Tên tuổi của những nghệ sĩ này còn nhiều hào quang nhờ vào những người thừa kế di sản, họ muốn duy trì ngọn lửa sáng thông qua những bộ sưu tập vàng. Sinh thời, Claude François là một trong những ngôi sao sáng của làng nhạc trẻ những năm 1960 tại Pháp. Sở trường của anh là hát những bản nhạc có nhịp điệu lôi cuốn, vì lúc mới vào nghề anh là một tay trống cừ khôi. Trong suốt sự nghiệp của mình, Claude François luôn đắn đo chọn lựa giữa hai con đường : một bên là dòng nhạc trẻ với những nhịp điệu sôi động, có nhiều triển vọng thành công nhờ tính thương mại phổ thông, còn bên kia là những bản nhạc được xem là dành cho người lớn, giai điệu hay ca từ đều được trau chuốt, nội dung bài hát cũng đa tầng hơn, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Về điểm này, nhạc phẩm « Je sais » (hiểu theo nghĩa Ta biết rồi) do Claude François sáng tác vào năm 25 tuổi (1964), có thể được xếp vào hạng mục thứ nhì do có nội dung sâu sắc hơn và nhất là bản nhạc ra đời trong một hoàn cảnh éo le, đầy những tình tiết ly kỳ. Bài hát này từng được tác giả Phạm Duy chuyển thành nhạc phẩm « Cuộc tình tàn » do nhiều nghệ sĩ trong đó có Vũ Khanh hay Ngọc Lan ghi âm lại. Câu chuyện diễn ra vào năm 1959 tại miền nam nước Pháp, Claude François lúc ấy vừa tròn 20 tuổi vào nghề chơi nhạc như một ca sĩ và tay trống chuyên nghiệp. Tại dàn nhạc của Câu lạc bộ khiêu vũ Monaco, anh gặp cô Janet Woollacott, một vũ công người Anh, chuyên biểu diễn trong các phòng trà, hộp đêm tại các trạm nghỉ mát ven biển. Không lâu sau đó, đôi bạn trẻ này thành hôn với nhau. Trong giai đoạn đầu đời, hai tài năng mới đều thầm ước mơ trong tương lai sẽ có được một sự nghiệp sáng ngời. Chính cũng vì thế vào năm 23 tuổi (1962) cặp vợ chồng này mới chuyển đến Paris lập nghiệp. Claude đi hát show để kiếm tiền nhưng mãi đến hơn một năm sau anh mới thành danh nhờ ghi âm nhạc phẩm « Belles belles belles » (bản phóng tác tiếng Pháp của Made to love của nhóm The Everly Brothers). Còn Janet được tuyển làm vũ công trong đoàn múa phụ họa nhân đợt trình diễn của nam danh ca Gilbert Bécaud tại nhà hát Olympia. Vào năm 1962, Gilbert Bécaud đã là một tên tuổi lớn trong làng nhạc Pháp. Nhạc phẩm « Et maintenant » (What now my love) của ông lập kỷ lục số bán trên thế giới vào năm 1961, còn chương trình phát thanh chuyên về nhạc trẻ « Salut les copains » (Thân chào các bạn) được đặt tên theo bài hát ăn khách của Gilbert Bécaud, vào năm 1957. Phải chăng Janet không còn yêu Claude vì anh quá nghèo, hay vì Claude luôn có tính khí thất thường, hay « nổi máu ghen ». Dù gì đi nữa, Janet quyết định rời bỏ Claude François để đến với Gilbert Bécaud rồi sinh một đứa con gái tên là Jennifer, cho dù lúc bấy giờ Gilbert đã có gia đình. Do Gilbert không chịu ly dị, chẳng đành bỏ vợ con, cho nên quan hệ giữa Janet và Gilbert vẫn là một mối tình vụng trộm không được danh chính ngôn thuận và trớ trêu thay đứa con « ngoại tình » lại không được Gilbert công nhận. Mãi đến năm 1967, tức 5 năm sau mối tình tay ba, Janet Woollacott và Claude François mới ký giấy ly hôn. Trong khi Gilbert vẫn ở lại với vợ con, chứ không lập gia đình với Janet. Phải công nhận rằng Claude François không có nhiều may mắn cho lắm. Anh sẽ lại phải đau khổ một lần nữa khi yêu một thần tượng nhạc trẻ khác là France Gall. Chuyện tình đôi bên cũng kết thúc không mấy tốt đẹp. France Gall rời bỏ Claude để về sống chung với nam danh ca Julien Clerc. Thất tình, Claude François viết lời cho nhạc phẩm « Comme d'habitude », sau đó đi vòng quanh thế giới với phiên bản tiếng Anh « My way » do Paul Anka viết cho Frank Sinatra  Về phần mình, Janet Woollacott từng viết một quyển sách về câu chuyện tình của mình với Claude Francois vào năm 1998, một thập niên trước khi Janet qua đời ở tuổi 73. Còn Claude Francois lập gia đình và có hai đứa với người mẫu Isabelle Forêt. Để hóa giải nỗi đau của những chuyện tình bất hạnh anh đã sáng tác nhạc phẩm « Je sais » vào năm 1964, do chính Claude sáng tác cả lời lẫn nhạc. Có thể xem đây là một trong những bản nhạc hay nhất của Claude François vì anh hát rất thật lòng về một mối tình tay ba, thời anh chưa thực sự nổi tiếng. Một chi tiết khá bất ngờ nhưng không kém phần thú vị là Gilbert Bécaud đã tìm cách hồi âm đồng nghiệp (nhưng cũng là tình địch) khi dựa vào giai điệu của bài « Je sais » để sáng tác nhạc phẩm « Je reviens te chercher » (Trở lại đón người tình). Về những mối tình không thành, Claude François sau đó sẽ ghi âm nhạc phẩm « Le mal aimé » (1974), phiên bản tiếng Pháp của giai điệu « Daydreamer » (Mộng ban ngày) và nhất là « Le chanteur malheureux » (Ca sĩ bất hạnh) cũng từ đó Claude François đi vào lòng người mến mộ với hình ảnh của một nghệ sĩ thành công rực rỡ trên đường đời, nhưng lại kém may mắn trên đường tình. Một người khó tính nhưng lại chung tình, khi đã yêu thì không bao giờ toan tính, cho dù tình có phụ bạc nhưng vẫn yêu hết mình.

    9 min
  4. 30 AUG

    Nhạc Pháp lời Việt : Các bản tình ca của Frank Michael

    Trong làn sóng các nghệ sĩ gốc Ý thành danh vào những năm 1970 tại vương quốc Bỉ, có Claude Michel, Frédéric François và Frank Michael. Điểm chung của ba gương mặt này là họ chuyên hát các giai điệu trữ tình, lấy nghệ danh Pháp dù sinh trưởng trong những gia đình người Ý nhập cư. Tên thật là Franco Gabelli, nam ca sĩ Frank Michael sinh năm 1953 tại thi trấn Bedonia, tỉnh Parma miền bắc nước Ý. Gia đình ông sang định cư gần thành phố Liège, năm ông lên ba tuổi. Thời còn nhỏ, ông tự học hát và tập chơi đàn. Đến khi lớn lên, ông học nghề thợ sửa thiết bị truyền hình. Sự nghiệp ca hát của Frank Michael bắt đầu từ năm 1974 với đĩa nhạc "Je ne peux vivre sans toi" do hãng đĩa RCA phát hành. Mặc dù ít được giới báo chí quan tâm, nhưng ông không ngừng đi hát trong các buổi tiệc cưới, biểu diễn tại các liên hoan địa phương. Nhờ vậy, Frank Michael từng bước gầy dựng uy tín của một ca sĩ chuyên nghiệp và chinh phục khán giả bằng những live show hát nhạc tình theo yêu cầu của người hâm mộ. Với hơn 20 album và 15 triệu đĩa hát được bán trên thị trường Bỉ cũng như tại Pháp, Frank Michael thành công nhờ chất giọng trung trầm, ấm áp, du dương. Ông tiếp nối con đường mà những danh ca cùng thời như Mike Brant hay Frédéric François đã vạch ra. Frédéric François có sở trường hát nhạc khiêu vũ và dân ca miền nam nước Ý, trong khi Frank Michael chuyên hát nhạc Anh phóng tác với nhiều ảnh hưởng của Richard Anthony và nhất là thần tượng của ông là Elvis Presley. Vào năm 2003, ông đã ghi âm tuyển tập « Thank You Elvis », bao gồm 15 ca khúc kinh điển phóng tác sang hai thứ tiếng Pháp và Ý để vinh danh ông hoàng nhạc rock. Một trong những album của Frank Michael lập kỷ lục số bán, được phát hành đầu năm 1997 với tựa đề « Toutes les femmes sont belles » đã thành công vang dội trên thị trường khối Pháp ngữ. Tiếp theo đó là album « Il est toujours question d'amour » mở ra thời kỳ huy hoàng của giọng ca này, với nhiều ca khúc được viết bởi nhóm sáng tác của nhạc sĩ Michel Mallory. Tác giả này nổi tiếng trước đó nhờ chuyên sáng tác cho Johnny Hallyday. Có người từng nói đùa rằng Michel Mallory soạn nhạc rock cho Johnny, nhưng khi viết các giai điệu trữ tình ướt át, ông lại dành cho Frank Michael.  Trong năm 2025, nam ca sĩ Frank Michael bắt đầu chuyến lưu diễn cuối cùng của ông với tựa đề « Farewell Tour ». Ông dự kiến giải nghệ sân khấu cuối năm nay, khép lại một sự nghiệp trải dài trong nửa thế kỷ, kể từ lúc phát hành đĩa hát đầu tay vào năm 1974 cho đến album gần đây nhất « Mes premiers amours » phát hành vào tháng 11 năm 2024. Cho dù ngưng đi diễn trên sân khấu, nhưng có nhiều khả năng ông sẽ vẫn tiếp tục thực hiện các album phòng thu. Trong số các bản nhạc của Frank Michael từng có thêm lời Việt, có nhạc phẩm tiếng Pháp « Une larme sur ton visage » từng được tác giả Khúc Lan chuyển thành nhạc phẩm « Người tình trong mộng ». Bản nguyên tác tiếng Ý « Une lacrima sul viso » là của danh ca Bobby Solo, bài hát này sau đó đã được nhiều ca sĩ hát tiếng Pháp ghi âm lại. Bài hát thứ nhì là « Ti senti sola stasera », phiên bản phóng tác tiếng Ý của nhạc phẩm « Are you lonesome tonight », tác giả Trầm Tử Thiêng từng đặt thêm lời Việt cho giai điệu này thành nhạc phẩm « Tình bơ vơ » do Elvis Phương ghi âm. Một lời Việt khác là « Đêm buồn » của tác giả Nguyễn Hoàng Đô. Bài hát thứ ba là « Dites lui que je l'aime ». Nguyên tác tiếng Anh là nhạc phẩm « Tell Laura I love her » của Jeff Barry và Ben Raleigh. Trong tiếng Việt, bài này có hai lời Việt khác nhau. Lời đầu tiên « Trưng Vương khung cửa mùa thu » lời của tác giả Nam Lộc. Lời Việt thứ nhì là « Ta vẫn yêu nhau » của tác giả Tùng Giang, do Ý Linh hay Ngọc Quỳnh ghi âm. Trong 50 năm sự nghiệp của Frank Michael, chủ đề tình yêu là nguồn cảm hứng bất tận. Trong số 450 bài hát mà ông đã ghi âm, hầu như bài nào cũng nói về chuyện tình cảm lứa đôi. Tuy không nổi tiếng bằng Julio Iglesias hay Adamo, nhưng Frank Michael luôn trung thành với khán giả của mình. Có hàng ngàn cách để hát về tình yêu, nhưng quan trọng nhất trong mắt nguời hâm mộ vẫn là tình yêu tuyệt đối : yêu đến trọn đời, yêu một lần thôi.

    9 min
  5. 27 AUG

    Lệ Thu Nguyễn: Vẫn gắn bó với sân khấu sau 30 năm định cư tại Pháp

    Tiếng hát với giọng nữ trầm đặc biệt của Lê Thu Nguyễn từ lâu đã quen thuộc với khán giả khắp nơi, từ Việt Nam trước đây, khi nữ ca sĩ này xuất hiện trên đài truyền hình, ở các tụ điểm ca nhạc, cho đến các sân khấu ở hải ngoại, nhất là ở Pháp và Hoa Kỳ.  Ngày Chủ nhật 28/09/2025, nữ ca sĩ Lệ Thu Nguyễn sẽ có một chương trình ca nhạc đặc biệt kỷ niệm 30 năm định cư tại Pháp, với sự góp mặt của những người bạn thân thiết trong giới nghệ sĩ như ca sĩ Thế Sơn, Sỹ Đan, nhạc sĩ Diệu Hương.  Nhân dịp này, RFI Việt ngữ đã phỏng vấn Lệ Thu Nguyễn để điểm lại toàn bộ sự nghiệp âm nhạc của nữ ca sĩ.  RFI Việt ngữ rất vui mừng được tiếp chuyện với nữ ca sĩ Lệ Thu Nguyễn tại phòng thâu của đài RFI nhân dịp chị đang chuẩn bị cho một chương trình đặc biệt vào tháng 9 để kỷ niệm 30 năm định cư tại Pháp. Xin chào chị Lê Thu Nguyễn. Xin chào Thanh Phương, chị rất hân hạnh hôm nay được đến nói chuyện với Thanh Phương, với khán thính giả của đài RFI. Vâng, trước hết chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian để trở lại điểm khởi đầu sự nghiệp âm nhạc của chị. Chị thực sự bắt đầu con đường ca nhạc từ khoảng thời gian nào? Chị có máu nghệ sĩ từ lúc nhỏ xíu! Lúc đó mẹ chị đàn tranh, mỗi lần có các nghệ sĩ ở đâu lên Đà Lạt thì họ tới đàn ca tài tử với gia đình chị. Mẹ thì dạy cho chị của chị hát. Lúc đó chị không có hát vì còn nhỏ xíu à, nhưng chị nghe những bài như Tứ Đại Oán, Văn Thiên Tường, mấy bài cổ nhạc lớn, chị thuộc hết. Từ nhỏ, lúc 10 12 tuổi, cũng cầm đờn, cũng hát hò ở nhà một mình. Gia đình chị khó lắm, không có cho đi hát. Mình đâu có nghĩ là một ngày nào đó sẽ trở thành ca sĩ. Nhưng khi về Sài Gòn năm 1977, chị có cơ hội gặp gỡ thầy Dương Thụ để lập một nhóm hát giao lưu với các trường đại học khác, rồi đi thi thì được huy chương vàng. Từ đó người ta mời mình đi hát, rồi tự nhiên mình cứ đi theo con đường đó, chứ không bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nghệ sĩ. Vâng, tức là sự nghiệp âm nhạc của chị là bắt đầu từ phong trào văn nghệ sinh viên và từ đó thì giọng ca của chị được các nhạc sĩ để ý đến. Cụ thể, vào thời gian đó là chị làm việc với những nhạc sĩ nào? Năm 79, lúc chị đang học ở trường Đại học Mỹ thuật, có những nhóm ca khúc chính trị, hay những đoàn như đoàn Bông Sen, đoàn Tháng Tám. Chú Hồ Bông, trưởng đoàn Bông Sen, với cô Thanh Trì cứ nói "Lệ Thu về đoàn đi", nhưng lúc đó chị còn đi học, nên từ chối. Nhạc sĩ Thanh Trúc, trưởng đoàn ca nhạc Tháng Tám, cũng mời chị về, "em ơi về về đoàn đi, có tương lai lắm", nhưng lúc đó chị là sinh viên, không thể theo đoàn được. Năm 79, anh Lê Hựu Hà với anh Đình Huấn có tới mời chị về tham gia, tại lúc đó chị hát cho nhóm ca khúc chính trị Thanh Niên Xung Phong. Mấy anh nghe chị hát trong Tao Đàn thì mấy anh mời chị về hát cho ban nhạc Hy Vọng. Chị hát được vài tháng thì ở trường lúc đó, thời 78, 79 rất là khó khăn, chị phải đi theo trường trồng rau muống bên Thủ Thiêm, phải đi đây đi đó, thành ra không tập dợt đều được. Chị phải xin nghỉ. Đến năm 82, theo lời "xúi giục" của mấy người trong trường, chị đi thi thì được huy chương vàng năm 82. Lúc đó mình mới nghĩ bây giờ mình là ca sĩ chuyên nghiệp. Năm 82 trở đi và cho tới những năm cuối thập niên 1980 là thời kỳ cực thịnh của những "tụ điểm ca nhạc". Thời gian đó âm nhạc thì được tự do hơn trước đó một chút, thành ra có rất nhiều nơi để biểu diễn cho công chúng. Và đó là những nơi thi thố tài năng của các ca sĩ mới lên giống như chị ? Chị hát cùng thời với Cẩm Vân, Nhã Phương, Bảo Yến... Đúng rồi, Bảo Yến, Nhã Phương, Cẩm Vân là những người bạn của chị thời đó. Em biết thời đó đâu phải là dễ dàng đâu. Không có được hát nhạc gì hết. Chị thấy có mấy ca sĩ cứ hát nhạc Tây Ban Nha, nhạc Latin, nhưng nói là nhạc Cuba, nhạc này nọ.  Còn chị thì vào thời gian đó vẫn hát nhạc Việt Nam, nhưng chị cũng hát nhạc Pháp và cũng bắt đầu hát nhạc Mỹ, tại vì chị nhớ khi hát cho ban nhạc Hy Vọng, thì chị đã hát bài của ban nhạc Abba. Nhưng sau đó, gặp mấy chú nhạc sĩ, mình phải phải tránh tiếng, tại vì chị nhớ thời tám mươi mấy, hát nhạc nước ngoài là bị phạt. Nhưng rồi cũng có môi trường để chị hát. Chị nhớ 85, 86 là thời thịnh nhất của ban nhạc Đài Truyền hình. Lúc đó hát nhạc Mỹ, nhạc Pháp rất nhiều. Sở trường của chị là nhạc Pháp, thành ra người ta hay yêu cầu chị hát nhạc Pháp. Nhưng chị vẫn rất thích hát nhạc Việt, bởi vì nhạc Việt thấm từ trong máu, là tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng bây giờ người ta yêu cầu sở trường thì mình làm sở trường, yêu cầu sở đoản thì mình làm sở đoản. Nhất là buổi tối thứ sáu hay có chương trình nhạc yêu cầu. Mấy người quen cứ nói " Cứ tối thứ sáu là thấy cái mặt Lệ Thu!". Thời gian đó chị lên truyền hình rất nhiều. Vâng, coi như đó là những môi trường để chị trao dồi về khả năng âm nhạc. Bây giờ nghĩ lại, môi trường đó đã đóng góp như thế nào cho sự nghiệp của chị? Thời gian đó thì cũng khó khăn lắm. Khi lần đầu tiên đi hát, chị đâu có biết nhạc lý. Cầm guitar học mấy cái accord thì mình vừa đờn mình vừa hát bài với accord có sẵn. Nhưng khi đi theo con đường chuyên nghiệp thì lúc đó mấy nhạc sĩ phải đưa bài cho chị. Nhiều khi mấy anh nói: "Lệ Thu ngày mai thâu truyền hình!" Mấy anh đưa hôm nay ngày mai thâu! Lúc đó chị không biết làm thế nào, nhưng may mắn là trong trường chị lúc đó có một cậu học chung, rất là dễ thương, rất vững nhạc lý, tên là Phạm Phúc Toàn. Cậu này bắt đầu dạy chị nhạc lý, vỡ bài cho chị hát. Một thời gian sau đó thì chị vỡ bài một mình được. Ban đầu phải có Toàn kèm chị mới hát được, thành ra mình cũng học hỏi được nhiều. Chị cũng gặp gỡ được ca sĩ này, nhạc sĩ kia. Ngày xưa có một thời gian chị rất gắn bó với nhóm nhạc sĩ của mấy anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Long Ẩn, Từ Huy... Gần như ngày nào tụi chị cũng gặp nhau ở Hội Nghệ sĩ. Tình cảm ngày xưa gắn bó lắm, không phải như bây giờ, ít gặp nhau. Vâng, như chị có nói, ngay từ đầu chị đã được khán giả yêu cầu hát  nhạc Pháp, bởi vì chị là người học tiếng Pháp từ từ nhỏ. Như vậy có thể nói là nhạc tiếng Pháp theo đuổi chị cho tới tận bây giờ và chị được biết đến nhiều hiện nay là qua các ca khúc tiếng Pháp. Chúng tôi được biết là ngoài những ca khúc tiếng Pháp đã được chuyển ngữ sang lời Việt, trong đó có những bản rất là nổi tiếng với những lời bài hát mà hầu như ai cũng thuộc, chị cũng đã tự chuyển ngữ một số bài. Việc chuyển ngữ như vậy có khó lắm không, nhất là những ca khúc mà người ta đã biết rất nhiều rồi? Chị nghĩ đó cũng là một cái khiếu, vì không phải ai cũng chuyển ngữ được. Có những bài hát rất là khó, thành ra nhiều khi chị phải mất vài ngày, một tuần lễ để tìm ra được những chữ vừa đúng nghĩa, vừa phù hợp với giai điệu. Nhưng chị vẫn thích làm, bởi vì chị nghĩ rằng khi đưa một bài hát đến với khán thính giả, điều cần thiết là khán thính giả phải cảm nhận được lời hát, cảm nhận hồn của bài hát. Và nếu em không hiểu được lời thì em cũng không cảm nhận được. Thành ra muốn đưa bài hát đến cho khán giả là chị phải tìm cách để cho khán giả hiểu được ý của bài hát, để có thể cảm nhận được dễ dàng hơn. Vâng, nhất là có một số bài hát người ta dịch không hoàn toàn xác nghĩa, thành ra khi ta nghe lời tiếng Việt thì nó hoàn toàn không giống như nghĩa trong bài tiếng Pháp! Chị là một người học tiếng Pháp và trình bày nhạc tiếng Pháp rất nhiều từ khi ở Việt Nam. Chị đã sang Pháp định cư từ năm 1995, tức là cách đây 30 năm. Trong thời gian đó chị đã bắt đầu đi hát trở lại chưa? Có, lúc đó mới qua chị cũng không quen ai hết, nhưng gặp lại chị Họa Mi. Ngày xưa ở Việt Nam hai chị em cũng hay đi hát chung, thành ra gặp lại chị Họa

    23 min
  6. 23 AUG

    Nhạc Pháp lời Việt : Daniel Hétu và tình khúc nhạc « Em hỡi, anh về đây »

    Vào đầu những năm 1970, thành công ở nước ngoài của nhạc sĩ trẻ tuổi Marc Hamilton đã mở đường cho khá nhiều tài năng xuất thân từ vùng Québec chinh phục thị trường quốc tế. Trong số này, một trong những giọng ca ăn khách đầu thập niên 1980 vẫn là Daniel Hétu. Nhiều sáng tác của anh từng được đặt thêm lời Việt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm « Je suis revenu » (Em hỡi, anh về đây). Sinh trưởng trong một gia đình nghệ sĩ ở Montréal, Daniel Hétu là con nhà nòi, từ nhỏ đã thừa hưởng năng khiếu âm nhạc từ thân phụ. Bố anh là nhạc sĩ Lucien Hétu (1928-1990) chuyên chơi đàn organ, ông bắt đầu sự nghiệp ghi âm vào năm 1959, chủ yếu nhạc hòa tấu và nhạc khiêu vũ. Trong vòng một thập niên, ông đã lập kỷ lục số bán với hơn một triệu đĩa nhạc, nhờ phát hành khoảng 30 album nhạc hòa tấu. Trước khi nối nghiệp thân phụ, Daniel Hétu (1950-2008) bắt đầu học đàn piano từ năm lên 4 (với thầy André Mathieu). Vào năm 11 tuổi, anh đoạt giải thưởng lớn nhờ album ca nhạc đầu tiên « The Parade of the Wooden Soldiers ». Cho đến năm 21 tuổi, ngoài việc học đàn và sáng tác, anh còn học cách hòa âm và điều khiển dàn nhạc tại trường cao đẳng Vincent d'Indy, ở quận Outremont. Hai cha con Lucien và Daniel Hétu có hợp đồng ghi âm tại cùng một hãng đĩa và sau một thời gian đi biểu diễn cùng với bố, Daniel Hétu sau đó tách ra riêng. Trong vòng hơn một thập niên, từ năm 1977 đến năm 1988, anh cho phát hành 5 album phòng thu gồm nhiều bài hát gốc, do chính anh sáng tác, hòa âm và trình bày. Vào năm 1979, anh thành công với giai điệu « Je t'attendais » (Con tim mong chờ), mang về cho anh hai lần đĩa vàng tại bang Québec. Trong tiếng Việt, bài này được nam danh ca Duy Quang chuyển lời thành nhạc phẩm « Anh vẫn đợi em » do ca sĩ Thái Hiền trình bày. Thành công này mở đường cho Daniel Hétu ghi âm nhiều bản nhạc ăn khách khác. Sự nghiệp của anh đạt đỉnh cao trong hơn 10 năm liền cho đến khi anh phát hành album phòng thu cuối cùng vào năm 1988. Ngoài ca hát, anh còn là giám đốc nghệ thuật phụ trách phần âm nhạc của nhiều chương trình truyền hình. Nhờ vào tài nghệ điều khiển dàn nhạc hòa tấu, anh đã hợp tác với nhiều ngôi sao vùng Québec như Ginette Reno, René Simard hay Patsy Gallant. Với tư cách là nhạc trưởng, anh cũng thường xuyên đi lưu diễn ở nước ngoài với nhiều danh ca Pháp như Charles Aznavour, Gilbert Bécaud hay Mireille Mathieu. Từ cuối những năm 1990, Daniel Hétu bắt đầu gặp nhiều vấn đề sức khỏe buộc anh phải ngưng công việc. Khó khăn trong đời tư tưởng chừng nhất thời, nào ngờ anh lại qua đời vì bạo bệnh vào năm 2008, ở tuổi 57. Người nghệ sĩ đa tài ra đi quá sớm để lại cho giới yêu nhạc nhiều giai điệu hay. Giới hâm mộ vẫn còn nhớ đến giọng ca của Daniel Hétu qua các nhạc phẩm như « L'amour que j'ai pour toi » (Tình yêu anh dành cho em), « Je cherche une fille » (Đi tìm cô bé xinh xinh) lời Việt của tác giả Nhật Ngân do ca sĩ Kiều Nga ghi âm. Trong số những sáng tác ăn khách của Daniel Hétu, bản nhạc nổi tiếng nhất (của anh) vẫn là « Je suis revenu » (Anh hỡi em về đây) lời Việt của tác giả Khúc Lan, được khá nhiều giọng ca trứ danh ghi âm lại trong đó có Ngọc Lan, Khánh Hà, Tú Quyên, với giai điệu ngọt ngào sâu lắng Cuối cùng anh vẫn về đây, từ đầu làm lại hôm nay, xung quanh chẳng gì thay đổi, như xưa khát vọng tràn đầy. Hão huyền con tim đã sống, giờ đây chẳng còn ảo vọng, đi đâu rồi cũng về đây, hoài công mong đợi đêm ngày, mong sao đừng cay đắng mãi, chỉ cần dang rộng vòng tay.

    9 min
  7. 16 AUG

    Nhạc ngoại lời Việt : Triều đại Aguilar, ba thế hệ hát nhạc tình La Tinh

    Bộ sưu tập vàng (La Colleción de Oro) là tựa đề bộ đĩa gồm những tình khúc chọn lọc của Pepe Aguilar, do tập đoàn Universal cho phát hành vào mùa hè năm nay, nhân dịp kỷ niệm 35 năm sự nghiệp ghi âm của danh ca người Mexico. Về mặt tuổi đời, ông thành danh hầu như cùng thời với ông hoàng Luis Miguel và là đàn em của Juan Gabriel cũng như của Julio Iglesias. Sinh tại bang Texas, Hoa Kỳ, nhưng lại lớn lên ở Zacatecas, miền trung Mexico, Pepe Aguilar (tên thật là José Aguilar) xuất thân từ một gia đình mà bố mẹ đều là nghệ sĩ nổi tiếng : thân phụ là danh ca Antonio Aguilar, một trong những người tiên phong trong việc phổ biến dòng nhạc mariachi ở nước ngoài, còn thân mẫu là ca sĩ kiêm diễn viên Flor Silvestre, một trong những gương mặt hàng đầu trong thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Mexico. Thừa hưởng năng khiếu của song thân, Pepe Aguilar dĩ nhiên từ lúc còn nhỏ đã chọn con đường sân khấu. Nhưng có lẽ, để khẳng định tính cách khác biệt, cho nên vào thời niên thiếu, anh chủ yếu hát nhạc rock, gia nhập nhóm "Equs" và thực hiện album đầu tiên của mình với nhiều ảnh hưởng của các ban nhạc rock lừng danh những năm1970, trong đó có Pink Floyd. Mãi đến sau này, khi anh bắt đầu sự nghiệp hát solo, thì lúc ấy anh dần tìm lại các dòng nhạc truyền thống của Mexico qua việc kết hợp âm thanh nhạc pop hiện đại với các bài dân ca cũng như các điệu nhạc mariachi hay ranchero. Gần giống với country, thể loại mariachi (với bộ đàn ghi ta, vĩ cầm và kèn đồng) thường phản ánh sinh hoạt miền đồng quê và đời sống trong các nông trại (ranchero). Thành danh ngay từ lúc phát hành album đầu tay vào năm 1990 (Pepe Aguilar con tambora), giọng ca này nhanh chóng trở thành một trong những nghệ sĩ quan trọng trong làng nhạc Mexicô, rồi từng bước anh chinh phục thị trường nói tiếng Tây Ban Nha, qua các đợt lưu diễn ở châu Mỹ. Đến đầu những năm 2000, qua tuyển tập nhạc tình kinh điển (Por el Amor de Siempre, và sau đó nữa là album Enamorado), bao gồm nhiều bài hát thịnh hành từ những năm 1960 của các nghệ sĩ trứ danh như Camilo Sesto, José José, Juan Gabriel, Luís Demetrio, Carlos Cuevas từng nổi tiếng với nhạc phẩm « Cha cha línda » … Pepe Aguilar đã thổi một làn gió mới vào những ca khúc vang bóng một thời. Thành công rực rỡ của album này đã củng cố hướng đi của anh, xen kẽ những giai điệu xưa như « Contigo Apprendi », hay « No soy de Aqui », với những sáng tác mới như Perdóname (Hãy tha thứ cho anh), Prometiste (Đừng quên lời hứa) Directo al corazon (Từ trong đáy tim) … Trong những năm sau đó, Pepe Aguilar thường hay ghi âm những tác phẩm « để đời » hầu ngỏ lời tri ân thế hệ của những nghệ sĩ đi trước, trong đó có những giọng ca tiêu biểu của thời kỳ hoàng kim của ranchero, dòng nhạc truyền thống của Mexico (như Pedro Infante, Javier Solis, Vicente Fernandez cũng như thân phụ Antonio Agular). Trong vòng ba thập niên sự nghiệp, Pepe Aguilar đã cho phát hành hơn 30 album phòng thu, bán được hơn 15 triệu album trên thị trường quốc tế. Thành công của các bản ghi âm đã đem về cho ông 5 giải Grammy La Tinh, 19 giải Lo Nuestro của Nam Mỹ và một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood, nằm ngay bên cạnh ngôi sao của thân phụ Antonio Aguilar. Hồi tưởng lại những năm tháng mới vào nghề, Pepe Aguliar cho biết lần đầu tiên anh lên sàn diễn, anh chỉ mới có ba tuổi, lúc bấy giờ anh được hát chung với bố trên sân khấu nhà hát Madison Square Garden ở thành phố New York. Có lẽ cũng vì thế Pepe Aguilar luôn khuyến khích con cái đeo đuổi con đường nghệ thuật. Sau Antonio và Pepe Aguilar, đến phiên Leonardo và Angela nối nghiệp cha cũng như ông nội, khi chọn con đường nghệ thuật sân khấu. Riêng nữ ca sĩ Angela Aguilar, tuy chỉ mới có 21 tuổi nhưng đã thành công rực rỡ với album chuyên đề bolero phát hành trong năm qua, hội tụ những giai điệu kinh điển hàng đầu như « Besame mucho », « Solamente una vez », hay là « Toda una vida ». Có lẽ cũng vì thế mỗi lần nhắc đến dòng họ nghệ sĩ này, người hâm mộ ở Mexico thường gọi họ là « Triều đại Aguilar », khi ba thế hệ trong cùng một gia đình, luôn hát nhạc La Tinh, những giai điệu xinh, muôn thuở trữ tình.

    9 min
  8. 9 AUG

    Nhạc Pháp lời Việt : Frédéric François trước sau vẫn hát tình ca

    Nhắc đến Frédéric François, người yêu nhạc Pháp nghĩ đến ngay một trong những giọng ca thành danh vào giữa những năm 1970. Khi thần tượng Mike Brant tự kết liễu cuộc đời vào năm 1975, anh đã để ngỏ sân chơi cho nhiều giọng ca nam chuyên hát nhạc tình, thị trường Pháp có Joe Dassin (người Mỹ), Patrick Juvet (Thụy Sĩ) hay Dave (Hà Lan). Còn tại vương quốc Bỉ, có làn sóng ca sĩ gốc Ý như Claude Barzotti, Claude Michel, Frank Michael và nhất là Frédéric François. Cũng như Frank Michael tên thật là Franco Gabelli, Claude Michel là Gianni Marzano, Frédéric François thật ra là nghệ danh của Francesco Barracato. Ông sinh năm 1950 trong một gia đình nghèo tại một thị trấn phía bắc đảo Sicilia. Gia đình ông rời Ý sang Bỉ định cư, năm ông chưa đầy hai tuổi. Thân phụ của ông (Peppino) làm nghề thợ mỏ và vào những dịp cuối tuần, Peppino thường hát tại các quán cà phê dành cho giới thợ thuyền những khúc dân ca miền Napoli cũng như các giai điệu cổ điển quen thuộc của Ý. Trong quyển hồi ký « Merci la vie » (Cảm ơn cuộc đời), Frédéric François cho biết chính thân phụ đã truyền cho ông niềm đam mê âm nhạc. Kỷ niệm « sân khấu » đầu tiên là vào năm lên mười, Frédéric François lúc ấy phải trèo lên ghế để cất giọng hát trước công chúng giai điệu kinh điển « O sole mio » tại quán cà phê của cộng đồng người Ý nhập cư. Từ thời còn nhỏ, ông tự học hát và sáng tác bằng đàn ghi ta. Năm 15 tuổi, song song với trường dạy nghề, ông theo học khoa thanh nhạc tại Nhạc viện thành phố Liège. Nhờ vào sự đào tạo bài bản này, vào năm 16 tuổi ông giành lấy hạng đầu cuộc thi hát (Microsillon d'argent) nhân một liên hoan ca nhạc. Giải nhất lúc bấy giờ là hợp đồng thu âm đĩa hát đầu tay, đồng thời người trúng giải có cơ hội hát trong phần mở đầu buổi biểu diễn của Michel Polnareff, người mà ông hằng mến mộ. Trong những năm mới vào nghề, ông ghi âm với nghệ danh François Barra, tên gọi theo tiếng Pháp và ngắn gọn hơn của Francesco Barracato. Mãi đến năm 19 tuổi (1969), ông mới lấy nghệ danh chính thức là Frédéric François. Sự nghiệp của Frédéric François thực sự cất cánh năm ông 21 tuổi. Nhạc phẩm « Je n'ai jamais aimé comme je t'aime » (Chưa bao giờ yêu ai như yêu em) chiếm hạng đầu thị trường Bỉ trong ba tháng liền khi được phát hành vào năm 1971. Bài hát này từng được tác giả Nhật Ngân chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm « Tình yêu đắm say » do ca sĩ Ngọc Bích trình bày. Thành công bước đầu này mở đường cho ông chinh phục thị trường khối Pháp ngữ. Từ năm 1973 trở đi, hầu như năm nào cũng đều có một bản hit đột phá của Frédéric François. Giọng ca này thật sự chinh phục công chúng Pháp vào năm 1984 với nhạc phẩm « Mon cœur te dit je t'aime » (Tim ta luôn nói yêu em). Khi mới vào nghề, Johnny Hallyday là thần tượng của giới trẻ (L'Idole des jeunes), trong khi Frédéric François dù còn trẻ lại trở thành thần tượng của giới trung niên và người cao tuổi (L'Idole des moins jeunes), một phần cũng do ảnh hưởng của thân phụ, ông thường hay hát « nhạc già » cũng như chuyên sáng tác theo các điệu nhạc xưa : rumba, cha cha, valse, paso, tango ….. Dù có thích hay không, cũng phải công nhận rằng Frédéric François đã tìm ra được cho mình một công thức giúp cho ông gặt hái nhiều thành công thương mại từ năm này qua năm nọ. Trong vòng 50 năm sự nghiệp, Frédéric François đã ghi âm hơn 40 album phòng thu, bán hơn 20 triệu đĩa hát trên thị trường khối Pháp ngữ. Ông trở thành nghệ sĩ Bỉ thứ ba thành công nhất ở nước ngoài chỉ sau Jacques Brel và Salvatore Adamo. Trong số hàng trăm ca khúc do chính ông sáng tác, đã có rất nhiều bài được ghi âm lại trong nhiều thứ tiếng. Riêng trong tiếng Việt, ngoài hai nhạc phẩm Tình yêu đắm say và giờ đây Muộn màng (Il est déjà trop tard) lời Việt của tác giả Lê Toàn, còn có giai điệu ăn khách « Si je ne te connaissais pas », từng được tác giả Khúc Lan đặt thêm lời thành nhạc phẩm « Từ khi biết em » do nam ca sĩ Tô Chấn Phong trình bày. Bằng những lời lẽ đơn giản thật thà, Frédéric François trước sau vẫn hát tình ca, cho muôn giai điệu thắm mềm sỏi đá.

    9 min

Ratings & Reviews

4.3
out of 5
19 Ratings

About

Góc vườn âm nhạc của RFI

More From RFI Tiếng Việt

You Might Also Like